Thiếu tướng Đỗ Mạnh hiện là chính uỷ quân đoàn đóng quân vùng ngoại
vi Hà Nội. Việc qua lại Thủ Đô đối với ông gần như là thường xuyên.
Qua Hà ông trở thành người bạn thân quen của Hương. ”Nay mới gặp
nhưng chú đã biết và rất quý cháu từ mấy chục năm trước“. Lần đầu
tiên gặp Hương ở chỗ Hiểu ông đã nói thế. Nhân ngày chủ nhật Họ bàn
nhau cả ”hội“ về thăm thằng cháu ruột đang làm bí thư huyện uỷ
huyện của Hà. Từ ngày Sài lấy vợ đến giờ ông chỉ đến thăm anh một
lần cùng thằng cháu trước khi nó về nhận công tác ở huyện này nhưng
chuyện gì của Sài ông cũng biết. Đến lúc ăn cơm ”chiêu đãi“ của
cháu xong ngồi uống nướ ông mới như là chợt nhớ ra hỏi chuyện mọi
người chuyện gia đình, vợ con Sài. Cả Hà, Hiểu và Tính đều có cách
nói hờ hững và những nhận định giống nhau về sai lầm của Sài, về sự
chán ngán của mọi người, không ai muốn quan tâm đến nó. Ông chép
miệng: ”Mọi việc đã thế rồi, nó tính sai thì phải chịu hậu quả.
Chúng mình có đứa em, đứa cháu dâu tốt cũng quý, mà không thì cơm
nó nó ăn, việc mình mình làm có ảnh hưởng gì lắm đâu. Chính qua
thực tế ấy cậu ta sẽ nhận ra mọi điều thôi. Tôi đề nghị anh Hà với
các anh đừng ai xa cách, hắt hủi nó. Là thằng biết nghĩ, nó cũng
khổ nhiều đấy“. Chỉ có thế rồi lại ăn kẹo uống nước, hút thuốc và
nói những chuyện khác. Nhưng đấy là công việc chính của các ông
trong chuyến đi này. Bằng sự tinh nhạy của mình ông biết hàng năm
nay cả Hà và Tính đều bất bình với cháu, với em mình. Ông nảy ra ý
định rủ mọi người đi chơi cốt để làm cho mọi ngừơi thân thiết của
Sài đừng ai quay lưng lại sự đơn độc của cậu ta. Cái công việc cốt
yếu ấy lại được xem như là vô tình, không hề quan trọng gì. Đấy là
thói quen từ xưa tới giờ. Ông biết những câu nói ”bâng quơ“ ở bàn
trà sau bữa cơm sẽ được cả Hà, Tính và Hiểu lưu ý. Riêng với Hương,
ông quý cái tình cảm tốt đẹp của cô dành cho những người thân thiết
của Sài. Song, Hương lại thấy mình không thể được như thế. Sài lấy
vợ, Hương buồn rầu lẩn tránh. Phẫn nộ với anh, cô xa lánh luôn cả
bạn bè và gia đình anh. Bẵng đi hàng năm, chỉ biết hàng chục lần
Sài đã phải bỏ nhà đi lang thang cô mới lại đến thăm Hiểu, chú Hà
và về quê thăm Tính. Như thế để làm gì? Và, tại sao? Cô không biết.
Cô thầm cảm ơn Thiếu tướng đã quan tâm đến Sài làm cho mọi ngừơi
gần lại với anh. Cô cũng cảm thấy mơ hồ là như thế mọi người sẽ gần
lại với cô hơn. Khi hai anh em đạp xe trở về nhà, Hương đã kể cho
anh Tính nghe bao nhiêu chuyện về tình cảnh khốn khổ của Sài trong
mấy năm qua. Anh dặn Hương thật thà như giao việc cho một đứa em
gái. ”ở trên ấy có điều kiện em động viên săn sóc nó hộ anh“. Hương
”vâng“ nhưng cô biết lúc này mình làm sao có thể làm được việc đó.
Có những khi đi làm về cô đạp xe vòng quanh cơ quan Sài, đến khi
nhìn thấy anh cô lại nhanh chóng vượt lên tránh sang đường khác.
Tuy vậy, cô vẫn tìm cách để chăm lo cho Sài. Cô đan cho anh đôi
găng tay, cái áo len cộc tay màu ghi, cái mũ len tím, đôi tất màu
nước biển và bàn cạo râu của Nga do thằng con lớn của cô học ở bên
ấy gửi về. Rồi thuốc bổ, thuốc kháng sinh, và đôi khi cho cả tiền
để anh mua thuốc lào. Tất cả những thứ đó cô giao cho anh Hiểu và
bắt anh phải giấu mọi người, kể cả Sài. Cô làm như thế hoàn toàn
không hề mảy may có một ý nghĩ tranh chia giành giật nào. ở tuổi cô
không còn cái háo hức liều lĩnh của tuổi hai mươi nữa. Chỉ vì
thương Sài quá. Và thú thật, có cả tình yêu nữa. Một tình yêu của
những kỷ niệm đã qua. Ngày nay không bao giờ cô cho phép mình được
bộc lộ hoặc chấp nhận nó. Lắm khi cô rất thèm có cách gì đó đến với
Châu, trở thành một ngừơi chị của Châu để khuyên bảo cô ta thương
yêu, trân trọng sự đau khổ và tấm lòng thành thật của Sài để cô ta
đừng làm khổ anh ấy. Nhưng mình là ai ? Liệu có giải thích được khi
vỡ lở rằng mình vốn là người yêu cũ của anh ấy không? Lắm lúc cô
lại thấy kệ nó, cứ để như thế mới đáng cái tội của Sài. Ai bảo thấy
con gái trẻ, đẹp là lao vào như con thiêu thân, để phải cưới chạy
như chạy tang. Cô lại bực tức với chính mình. Tại sao cứ phải lo
nghĩ dằn vặt đến những chuyện ấy? Để đem lại cái gì? Có lần đem các
thứ đến đưa anh Hiểu để gửi cho Sài, lúc quay ra lại thấy vô lý,
thấy mình làm việc đó là hấp tấp, vô nghĩa. Nhưng lại không dám
quay lại bảo anh Hiểu hãy cứ để đấy. Rồi cuộc sống của họ sẽ ra sao
khi Châu đẻ thêm đứa con nữa. Có thể có thêm đứa con, Châu sẽ
thương sự vất vả của chồng và tủôi tác lớn hơn sẽ chấp nhận cuộc
sống ổn định để vợ chồng con cái, vui vẻ đầm ấm! Đến lúc Sài được
yên ổn, hạnh phúc, thì tình cảm của mình sẽ như thế nào? Tự nhiên
Hương dùng cả hai bàn tay tát mạnh vao hai má mình rồi ôm lấy mặt,
không dám nghĩ tiếp một điều gì sẽ xảy ra!
Châu không đi phá thai như lời Nghĩa nói với Sài. Cô bắn tin để doạ
Sài hay vì gia đình ngăn cản? Hoặc vì một lý do nào khác! Sài không
hề quan tâm. Chỉ có điều anh bắt đầu chờn với người vợ được xem là
ngừoi ”Có trước, có sau“. Một con người đã nói ra được những lời
độc ác cũng dám liều lĩnh làm nên tội ác. Biết vậy anh im lặng.
Châu cùng mẹ, chị gái rồi chị dâu và cả Nghĩa trở lại nhà sau khi
Nghĩa hốt hoảng nói đến bệnh tình của bé Thuỳ. Vứt xe đạp ở bờ
tường, chạy lao vào nhà, cô muốn oà khóc vì thương con, vì căm giận
chồng, vì cả nỗi hoảng hốt. Thấy bà cụ hàng xóm đang ôm con mình,
cô lấy ngay vẻ bình tĩnh: ”Bà ơi, con ơn bà lắm! Bà cho con xin
cháu. Trời ơi, không ngờ mấy ngày nay con bị ốm, chắc có bố trông
coi ở nhà!“- ”Trẻ con đứa nào cũng phải qua cái đận này. Mấy ngày
nay bố nó cũng vất vả. Chị cứ ủ vào cho cháu nó ”nở đều“. Châu cúi
xuống nhìn con đã teo tóp lại tới mức không thể ngờ tới. Nước mắt
cô ứa ra rào cả xuống chiếc tã bông cuốn cho con. Trong cơn mê man
thằng bé mơ thấy mẹ nó đang ôm nó trong lòng nhưng lại gỡ tay nó
ra, sẽ sàng đặt nó xuống giường, chạy lao ra cửa. Nó hoảng hốt chạy
theo: ”ới mẹ ơi, mẹ ơi đợi con, đợi con“- ”Mẹ đây, mẹ đây“. Châu
nắm lấy tay con ghì nó chặt lại: ”Con ơi, Thuỳ ơi, mẹ đây. Tỉnh lại
đi con, tỉnh lại con, mẹ đây mà. Mẹ Châu về với con đây mà“. Thằng
bé đã nhận ra tiếng mẹ, nó động đậy bàn tay bé xíu như cái tai con
thỏ con lần sờ tìm bàn tay mẹ. Nhận đúng là mẹ nó rồi, nó khum bàn
tay như thể nắm lấy ngón tay giữ mẹ lại, không cho mẹ chạy đi.
Nhưng tay nó không nắm được nữa. Nó tủi thân, nước mắt rào qua lớp
dỉ đã kéo thành màng trên vòm mắt. Châu vội vàng lấy khăn lau nước
mắt và lớp dỉ đã mềm rữa. Thằng bé cố lắm mới lại mở được mắt.
Những lớp mụn lấm tấm như kê đã mọc đều trong mắt nó. Đôi môi bong
rộp của bé hơi ánh lên tươi tắn, như muốn biểu lộ hết nỗi sung
sướng vô cùng của nó. Người mẹ đã nhận ngay ra dấu hiệu tốt lành
ấy, nó như sự ban thưởng lớn lao không có gì sánh nổi. Châu cúi sát
mặt con. ”Con mẹ giỏi lắm. Có thương mẹ hông?“ Nó cố gắng gật đầu-
”Mẹ thương Thuỳ của mẹ dũng cảm lắm. Con ngoan cố chịu đau cho
chóng khỏi mẹ đưa Thùy đi bà nhé“. Nó phấn chấn gắng gượng gật đầu.
Đứng chống tay voà thành giường ngóng đợi niềm vui của hai mẹ con
là bà ngoại, là bác, là cô và các anh, các chị trong khu tập thề.
Bà cụ già trong khu nhà lại phải ”chỉ huy“ đám ngừơi ấy ”giải tán“
và dặn Châu những điều cần thiết phải kiêng cữ cho con rồi bà mới
cười cười yên lòng trở về nhà mình. Sài pha nước mời mẹ vợ và mọi
ngừơi cùng uống xong anh theo sự điều khiển của chị gái Châu đạp xe
đi mua rau để chị nấu cơm hộ. Người chị ý tứ và thương hại cả hai
em đã lôi hết quần áo, xoong nồi trong tủ và trong chạn sau hàng
tháng trời không được ai nhìn ngó tới. Căn phòng và bếp được ”tân
trang“ lại đâu vào đấy. Chị như người đại diện cho niềm kiêu hãnh
luôn luôn của Châu về nề nếp của gia đình mình. Còn chú cháu của
Sài lại là hiện thân của sự toạ tệch, luộm thuộm nhiều lúc Châu bắt
”quả tang“ một trong những việc làm mang dấu vết ấy khiến anh không
thể cãi lại. Khốn nỗi, cái bệnh sĩ diện hão làm cho anh ta không
dám thú nhận nghiêm túc với chính mình để nghiêm túc sửa đổi. ở
trong nhà không làm cho nhau vui được cô phải tìm kiếm sự đồng cảm
ở bên ngoài. Đó là lẽ thường gì mà khó hiểu. Cái lập luận vững chắc
trong cô được hình thành khi sống với Sài. Cô tin đến muôn đời, anh
và những người xung quanh không thể tìm đến cái ý nghĩ sâu xa ấy.
Dọn dẹp, nấu cơm ăn xong, chị gái lên bế cháu để ”vợ chồng mời bà
đi ăn cơm rồi bà ở lại với cháu một đêm“. Câu nào chị cũng nhắc đến
”vợ chồng“, ”các em“, ”hai đứa“, ”cô cậu“. Mãi hơn chín giờ đêm chị
mới trở về nhà để ăn cơm chiều. Dù đã yên lòng vợ chồng ”cô cậu“ có
vẻ hoà hợp với nhau chị vẫn phải kéo em gái ra đường dặn dò: ”Chín
bỏ làm mười“, giữ gìn êm thấm đừng để xung quanh cười chê“. Dù chị
không dặn Châu cũng biết trong những ngày tới không có cách nào
khác là phải vui vẻ nói với nhau mà ngừoi điều khiển cái tình cảm
ấy là cô. Sáng hôm sau nhân bà cụ về Châu bắt đầu sai chồng câu đầu
tiên có dùng chữ ”em“: ”Đưa cụ về, nhân tiện đến cơ quan em xin
nghỉ tiếp để trông con“. Giá như trước đây được câu đó Sài đã hý
hửng, hấp tấp làm theo mệnh lệnh của cô. Bây giờ anh chỉ thủng
thẳng ”ừ được“. Đủng đỉnh lấy điếu cày xuống bếp hút thuốc để tránh
khỏi làm sặc con rồi mới thong thả dắt xe đi. Cách sống hơi ”ngang“
của anh làm Châu vừa bực vừa có phần nể sợ, dè chừng. Tuỳ. Anh
không quan tâm lắm đến thái độ của cô. Anh đã nhất quyết sống như
thế. Chỉ có tình thương yêu, nhất quyết không còn sợ. Sợ cái gì mất
cái đó. Anh biết thế nên cứ sống hết lòng với vợ con. Cái gì làm
được không tiếc. Cái gì không làm được không cố mãi lên để chứng tỏ
cho vợ biết mình có năng lực. ”Chỉ có thế“ cô muốn chấp nhận hay
phản đối đều được hết. Con chạy đi chơi và ăn ”giả bữa“ rất khỏe
anh mới ”hoàn hồn“, được ngủ thẳng cánh một đêm từ sáu giờ tối đến
tám giờ sáng hôm sau. Vợ gọi dậy trông con để cô đi làm đầu, anh
mới biết mình đã được ngủ một giấc khoan khoái đến thế. Được mấy
ngày rảnh rang đã tưởng có thời gian ”hả hơi“. Năm ngày sau khi con
khỏe vợ đau quằn quại phải mang đi cấp cứu. Ngỡ động thai hoặc đau
ruột, gan gì đấy, không ngờ cô đã trở dạ đẻ. Mới có thai được bảy
tháng rưỡi đã đẻ. Gần bốn năm trời lấy nhau, bằng đồng lương của
hai ngừơi phải nuôi vợ đẻ, con ốm và sắm sửa. Đấy là nhà, giường
tủ, anh Tính và bạn bè đã giúp bây giờ còn ”mang nợ“. Lần trước gia
đình và bạn bè còn hỗ trợ, đến lần này một mình phải cáng đáng mà
chưa hề chuẩn bị được tí gì. May còn toàn bộ tã lót, quần áo của
thằng nhớn. Nhưng chạy ăn lúc này đâu phải là chuyện dễ dàng. Mấy
trăm bạc vay trong dịp nuôi con ốm Sài đã phải xin khất lại. Những
người chủ đều thương tình, không những cho anh khất mà còn thương
tình, không những cho anh khất mà mỗi người còn cho mượn thêm dăm
ba chục. Ngoài số tiền lương, tiền mượn Sài bí mật nhờ người bán bộ
quân phục ốt pho được phát trước khi ra khỏi quân đội. Đôi giày đen
và cái chăn dù vật kỷ niệm cuối cùng ở chiến trường cũng bán. Được
hơn một nghìn. Anh dồn tất cả sức lực gắng gượng, nuôi vợ, nuôi con
trong nỗi âm thầm đau đớn. Đứa con được bảy tháng rưỡi bệnh viện
phải nuôi trong lồng kính. Vợ khóc tấm tức mỗi lần lên nhìn con bao
bọc bởi lớp da đen tai tái. Có người độc mồm bảo trông như con chó
con bị thui. Anh an ủi vợ: ”Thôi, đằng nào cũng là con mình, không
may con thế sau này mình càng thương nó“. Chẳng ngờ mấy ngày sau cả
gia đình nhà vợ đều đổ tại Sài đã mang bệnh sốt rét từ Trường Sơn,
mang cái tai hoạ của chất độc hoá học từ rừng rú về bắt con cháu họ
phải chịu hậu quả. Sài cắn răng im lặng trước cái nhìn của vợ mà
anh biết cô đã nhìn anh, kẻ thủ phạm gieo rắc tội lỗi lên ngừơi cô,
lên danh dự của gia đình cô. Ngoài các cháu, các bà cụ ở khu tập
thể đỡ đần một vài việc và những người thân của Châu thỉnh thoảng
đến bệnh viện thăm, cho cô chục trứng, hộp sữa ra... hầu như cả hai
bên gia đình không ai giúp việc gì trong hàng đống công việc. Làm
khai sinh, nhập hộ khẩu, làm tem phiếu, đi xếp hàng, giặt giũ, nấu
ăn cho vợ, đun sữa cho con bé, tắm rửa cơm nước cho con lớn, đưa
đón nó đi về nhà trẻ... suốt ngày quần quật sấp ngửa, vất vả đến
đứt hơi, đêm về hai mắt cứ chong chong, đầu óc buốt giật, không sao
chợp mắt được. Có những đêm trằn trọc vật vã anh ngồi dậy muốn vác
xe đạp đến đấm cửa những ngừoi anh em chú bác nhà Châu mà thét vào
mặt họ: ”Không có những thằng sốt rét, đội bom, đội đạn ở chiến
trường hàng chục năm trời, làm sao các người được phè phỡn rong
chơi ”gá“ mình vào các cơ quan nhà nước để lấy lương và ăn cắp, để
móc ngoặc và ăn đút lót. Ti vi, tủ lạnh, xa lông và hàng trăm thứ
khác nứt nở đầy nhà mà vẫn ngoạc mồm kêu to nhất về sự thiếu thốn
khó khăn và những bậy bạ của xã hội“. Nhưng nói điều đó ra lúc này
họ sẽ mỉm cười ”Ai bảo mày dại mà kêu. Kể công lao không được quái
gì đâu, chỉ tổ người ta chê cười. Chỉ có thằng hâm mới lên án ngừơi
khác làm ăn không chính đáng: Châu cũng đã có lần thách thức và
dễu: ”Này, cái dũng sĩ của anh mà đổi được mớ rau muống khỏi phải
xếp hàng thì cũng giá trị lắm rồi, đừng sĩ diện hão với danh từ
sang trọng ấy. Có ngày chết đói đấy!“. Chao ơi, những con ngừơi ấy
đang được coi là ”tân tiến“, ”thức thời“ được nhiều kẻ khác chầm
vập thèm muốn? Còn nói được gì với ai nữa! Đành phải nuốt vào lòng
mình nỗi bất lực để mà im lặng, để trở thành con người biết điều.
Lớp da ngoài của con dần dần bong rộp như bóc được lớp vỏ màu đen
để hiện ra một lớp da khác cùng trắng dần lên như mọi đứa trẻ bình
thường khác. Cái ấn tượng về một di chứng bệnh hoạn do Sài gây nên
cũng bong dần đi theo lớp da màu đen của đứa trẻ. ít hôm sau lại có
chuyện khác. Sài đi đong gạo, rồi lại phải xếp hàng mua đường. Chỉ
mang một bao tải, không ngờ lại có cả mì trắng. Anh đổ gạo xuống
dưới buộc chẽn ở giữa rồi đổ mì vào ngăn trên. Do vội vàng phải đi
sang bách hoá xếp hàng tiếp, anh không kiếm được dây chắc buộc ở
miệng. Để tải lên sau chỗ ngồi, phần gạo nằm trên gác ba ga còn
phần mì thõng xuống. Đi giữa đường dây đứt, mì đổ toá ra. Anh ngồi
bốc mì, gặp Nghĩa. Cô ta lại kêu lên hoảng hốt và ngồi xuống giúp
anh. Cô còn nhận đưa anh ra cửa hàng quen nhờ mua đường khỏi phải
xếp hàng. Vừa đi cô vừa than vãn thương cảnh long đong vất vả của
anh.
- Em thấy anh tội nghiệp ghê lắm cơ. Phải nói, em rất thương anh
nhưng... Vẫn giọng chân thành: - em nói chuyện này cấm anh được nói
lại với chị Châu nhé.
- Sao lại...
- Em rất tin ở anh nhưng cứ phải dặn thế để anh chú ý. Em hỏi nhé-
Sài gật đầu khuyến khích- Có phải tại anh hắt hủi nhiều quá khiến
chị Châu phải đẻ non không?
- Châu nói thế
- Không, em biết.
- Em biết kể cũng tài đấy.
- Vì thế em mới phải hỏi anh.
- Thế em có tin là anh như thế không!
- Thì không tin. Thấy khu nhà em nói ầm lên em mới bảo để lúc nào
hỏi anh mà.
- Chuyện ầm lên ở chỗ em?
- Cấm anh không được nói là em nói đấy.
Sài hơi nhăn mặt lại như cố dìm một nỗi đau khác muốn trồi lên. Anh
gật đầu như một lời thề phải giữ kín tất cả mọi chuyện. Nghĩa đã
nói với anh. Cho đến mãi sau này chuyện đó thành câu hỏi chính thức
của nhiều bạn bè thân thiết và gia đình ở quê. Sài đều im lặng
không hề hé răng nói nửa lời thanh minh. Chỉ có riêng ngày hôm nay,
sau khi chia tay Nghĩa đạp xe về nhà đầu óc quay cuồng như chong
chóng, anh mới thấy mắt hoa lên, tay lái chệch choạng thế nào,
chiếc xe đạp tự nhiên đổ. Anh ngã chúi đầu xuống bên đường. Không
rõ vì đau đột ngột hay tủi thân phận mình quá nước mắt anh ứa ra,
vội vàng giơ cánh tay áo lên gạt nước mắt. May mà đoạn đường vắng
chưa có người đi đến nhìn rõ mặt anh. Nhưng còn biết kêu ai, trách
ai khi mình đã phẫn nộ với tất cả mọi sự dị nghị, can ngăn của tất
cả mọi người.
Chuẩn bị cho con ra viện cô hỏi anh:
- ý mẹ và các anh chị định mẹ con em về với cụ một thời gian để
tiện các bác, các cô chạy đi chạy lại giúp và nhỡ khi có chuyện gì
đỡ lo. Anh thấy thế nào.
Giá như trước đây anh đã sốt sắng: ”ừ tốt quá. Nhờ cụ, nhờ các bác
đỡ cho anh ít ngày“. Nhưng bây giờ anh hỏi lại:
- Vợ chồng con cái mỗi người một nơi... Đang lúc em và con ốm yếu
anh lại...
Bằng lời nói đánh lừa ý nghĩ trong lòng mình của một anh nhà quê
lại làm cho một cô gái sành sỏi của Hà nội cảm động. Có lẽ lần đầu
tiên Châu mới được nghe những lời nói của chồng quan tâm đến cô âu
yếm như thế. Cô thành thật:
- Cứ nhờ bà, nhờ các bác để bố cũng đỡ vất vả một chút.
- Như thế có tiện không?
- Việc gì mà không tiện.
- Tuỳ em. Nếu em thấy thuận lợi cứ đến bà ít hôm. Có điều là cho cu
Thuỳ xuống nữa thì khổ bà, mà để nó ở nhà cậu ta không chịu, hay là
anh cho con về quê ít ngày.
- Cũng được. Nhưng anh phải để ý ao chuôm đấy, em sợ lắm.
- Không bao giờ em tin anh ngần này tuổi đầu có thể trông được
con.
- Anh hay quên, nhỡ ra... Mà nước nôi tắm rửa cẩn thận không lại
ghẻ lở hắc lào ra đấy.
Sài hơi khó chịu
- Thôi không bàn nữa. Cứ thế. Nếu em xuống bà, anh cho con đi ít
ngày nó phóng khoáng ra.
Cốt thoát khỏi cái không khí ngột ngạt tù túng ít ngày, song lại
không muốn phiền ai ở quên, ngay đến anh chị Tính như cha mẹ sống
lại Sài vẫn không thể cứ quấy quả phiền nhiễu mãi. Anh chị cũng
đang túng. Hơn nữa, bằng cử chỉ, lời nói khi anh Tính đến thăm, Sài
đã thấm thía nỗi nhục nhã của kẻ ăn xin, ăn mượn. Anh đã tự nhủ
lòng mình: Cái thế còn chạy vạy được, phải cố. Nhờ vả ngừơi khác để
mang nợ biết bao giờ trả được. Dù họ cho không thì cũng có cách họ
bắt mình phải trả. Không trả được, suốt đời phải chịu ơn và mang
tiếng xấu.
Anh đã từng lên án những người ở quê nhưng chính anh lại giống họ:
Rất khó thay đổi, nhưng khi đã thay đổi thị chạy luôn từ cực này
sang cực khác. Để không phải nhờ vả ai, anh đã giấu vợ mua chục cân
phiếu gạo và dự trù trả tiền ăn ở bất cứ nhà ai nếu đến ăn cơm nhà
họ. Đến khi vợ bảo mang dăm cân gạo đi anh đã nói xẵng:
- Mang củi về rừng để làm gì?
- Cứ mang theo, ở nhà quê đang túng.
- Dù có chết đói ngay ngày mai cũng không ai người ta làm
thế.
Đúng là nhà quê đang đói. Mỗi ngày gia đình phong lưu nhất mới giữ
được ngày hai bữa: bữa sáng rong riềng non tèo tẽo và bữa chiều
cháo nấu lẫn với su hào, bắp cải, rau cải và khoai lang. Những gia
đình khác thực ra chỉ có một trong hai bữa như thế nhưng họ chia
đôi để cũng có hai bữa ăn trong ngày. Đang vất vả chạy ăn vợ chồng
Tính cũng đã chuẩn bị được đôi gà hai chục trứng, mươi cân gạo quê.
Vợ giục giã mang cho em từ mươi lăm ngày trước, Tính vẫn chần chừ
chưa tìm ra lý do để giải thích tại sao lại chậm trễ. May quá, bố
con Sài về. Nghe em kể sơ qua mọi chuyện anh cười dễ dãi:
- Được rồi, anh chị đã chuẩn bị các thứ cho Châu, Sài chịu khó ngồi
xe máy cháu nó lai lên rồi lại lai về.
Không hiểu tại sao anh đã trở lại tình yêu thương mình như hồi chưa
lấy Châu. Song, vẫn thấy chờn chợn, Sài gạt đi:
- Thôi ở nhà mọi thứ có đủ cả rồi.
- Chuyện! Đây là trách nhiệm của anh chị, chả nhẽ nhà mình không có
ai.
Để rồi em lại nghe những lời ca thán vì chú mà tôi kiệt quệ, con
cái nheo nhóc!
Vợ Tính thấy hai anh em im lặng vẻ khó khăn, chị lấy hai ngón tay
gon cốt trầu ở hai khoé môi lại, nói. Bao giờ chị nói cũng đơn giản
nhưng không thể phản đối:
- Đừng ngại chú ạ. Anh chị không như ngừơi khác giúp ai một tý bằng
cái móng tay, ngồi kể công hết năm này, tháng khác. Chị vẫn bảo anh
chú, sức mình lo được cho em đến đâu cũng không tiếc. Không lo được
nó cũng không bắt vạ mình. Tôi không đồng ý với bố nó khi bốc đồng
lên thì chả tiếc gì nhưng có lúc lại đi nhắc lại chuyện cũ. Như
thế, có khác gì mình đòi nợ. Tôi xin bố nó và chú từ nay anh em nhà
mình có gì không nên không phải bảo nhau, còn đồng tiền bát gạo
xong đâu bỏ đấy, không khi nào được đả động đến như kiểu anh chị em
con cháu nhà khác.
Cả hai anh em đều sượng sùng. May có cu Thuỳ hớt hải chạy về mách
bố: ”Anh gì, nhà bác gì lại bảo bố Thuỳ không phải tên là Sài bố
ạ“.
Những ngày ở quê hoàn toàn khác hẳn với sự chuẩn bị của anh. Ai
cũng quý mến vồ vập. Những ngừơi mà cả mấy chục năm nay hoạ hoằn
mới về quê dù đi xe đạp, xe máy hay đi bộ anh cũng không tường mặt
ai, không nghe rõ tiếng một người nào, anh chỉ lướt qua sự cặm cụi
lam lũ của họ ở hai bên đường. Bây giờ gặp ai cũng là họ hàng thân
thiết: Độ này thím ấy có khoẻ không? Sao cậu không đưa mợ và cháu
bé về. Giời ơi dạo này trông em chị rạc đi như một ông lão, chị
không nhận ra cứ tưởng lão hàng tre ở chợ Bái. Anh trai không biết
em đâu. Em là Được con gái đầu của cô Thơ em ruột cụ đồ nhà mình
đây mà. Eo ơi, trông anh già hơn cả anh Tính. Có nhẽ già như ông Hà
chứ không ít. ở Hà Nội làm việc trí óc của người ta, không già lại
thế nào. Ai cũng mời mọc, hẹn hò. Một cô bé chừng mười bảy tuổi rất
xinh gái đứng lặng nhìn mọi ngừơi đang quây quần ríu rít quanh
người Sài nói cười hơ hớ. Cuối cùng nó níu tay anh: ”Tối nay chú ra
nhà cháu nhớ?“- ”Mày là con nhà ai?“. Mọi ngừơi cùng cười oà ra.
Trời ơi, con nhà anh cả đấy. Con bé cũng cười. Ngày thím sinh em
Thuỳ cháu cũng ra nhà đấy thôi. Tất cả lại cười thú vị về sự nhầm
lẫn không thể nào ngờ tới của ông chú ruột quý tử lại đãng trí đến
thế. Thằng con vợ cũ được anh xin vào trường văn hoá quân đội cũng
nghỉ mùa.Nó làm được mọi trò, mọi việc cho thằng em thoả chí thì
thôi. Cu Thuỳ thích chơi với anh hơn là đi với bố, Sài dặn con:
”Không được rời em nửa bước nghe không“. Một lời của anh là một
mệnh lệnh vô cùng thiêng liêng hệ trọng đối với nó. Anh tin là
không bao giờ nó làm sai. Chỉ cho con theo đến các gia đình quanh
xóm, rồi để nó chơi với anh, Sài theo Tính đi hết họ hàng nội
ngoại, các gia đình cán bộ cũ và mới, ở thôn nhà và các thôn khác.
Ngày nào cũng đi. Mỗi nhà chỉ dăm mười phút, đi cả hàng tuần lễ vẫn
chưa hết lượt. Bằng những cử chỉ rất chủ động, những lời nói xô bồ,
phóng khoáng, gặp ai Sài cũng nói năng hoạt bát. Già hay trẻ, lầm
lì hay ngang ngược anh cũng làm thân ngay được. Đến nhà ai cũng
được khen: Anh Sài vui tính đến thế. Người ấy đi đến đâu mà chả
được quý mến. Ông em có vẻ hoạt bát nhanh nhẹn hơn ông anh. Người
có học hành đi nhiều cũng có khác. Cái gì cũng biết, chuyện gì cũng
nói được.
Hàng tuần lễ đến nhà nào cũng như về nhà mình. Hoặc là bạn bè của
bố mẹ hoặc bạn của anh chị, hoặc họ hàng, cháu chắt, hoặc chả hề
quen biết gì với anh nhưng ai cũng thành thật tốt bụng. Bà con mình
tốt quá. Chịu thương chịu khó lam lũ cực nhọc quá. Cứ ở phố xá gặp
và nghe không ít những kẻ đài các và giàu sang, kẻ du côn và trộm
cắp, phe phẩy, ăn nói và tìm cách lẩn tránh trách nhiệm và nghĩa vụ
với xã hội thì tưởng chủ nghĩa xã hội mất đến nơi rồi. Về đến quê,
thấy yên tâm hẳn, tin ngay là chủ nghĩa xã hội còn, nhất định sẽ
vượt qua được những thử thách quyết liệt để đi lên vững chắc. Những
người nông dân tốt bụng thế, chịu khó thế, bảo gì cũng nghe, ăn gì
cũng được, mặc gì cũng xong, khổ mấy cũng chịu, khó bao nhiêu cũng
làm. Nơi nào có gì làng này có đấy, có khi còn sớm sủa hơn các nơi
khác. Nghĩa là từ tổ đổi công lên hợp tác thấp, hợp tác cao, từ xóm
hợp nhất thành thôn rồi lên cấp cao toàn xã, rồi khoán trắng khoán
đen đến năm ba khâu quản... Đủ tất tật mọi thứ, nhưng những con
người tốt cực kỳ ấy tại sao mấy chục năm qua vẫn khổ sở đói khát
chưa từng gặp bất cứ ở đâu. Không biết nó ở nguyên nhân cao xa nào?
Không biết. Nhưng bằng con mắt thường của người bình thường cũng đã
nhận ra được khối điều. Hơn hai chục năm nay thay hàng chục ông chủ
nhiệm và quản trị mà cái kẻng treo ở chỗ cổng nhà tổng Lợi ngày xưa
làm hiệu lệnh đi làm cỏ và đi họp cho cả sáu đội sản xuất vẫn không
thay và không chuyển nó đến chỗ trung tâm. Nó bằng non nửa thanh tà
vẹt du kích phá đường lấy về từ cuối năm bốn chín. Vứt vạ vật mãi
đến khi có tổ đổi công đem về treo lên làm kẻng. Đến bây giờ nó đã
bục ở giữa, phía dưới giập, phía trên rỉ hết lớp này tở ra lại đến
lớp khác. Mỗi lần gõ vào nó chỉ cạch... ạch... ạc mà vẫn cứ đều đặn
ngày năm lần phó chủ nhiệm phụ trách sản xuất sai con ra đánh kẻng
giờ làm, giờ nghỉ, giờ họp. Và cái giờ giấc đi làm không biết ai
quy định từ khi Sài mới đi bộ đội đến giờ vẫn đúng như thế. Bất
chấp mùa nào. Bất chấp thứ hoa màu gì. Bất chấp thời tiết ra sao.
Sáng bảy giờ đánh kẻng. Tám rưỡi đủ người. Chiều hai giờ đánh kẻng.
Ba rưỡi hoặc hơn mới í ới gọi nhau. Chiều nào Sài cũng lang thang
đi khắp cánh đồng. Nhìn đến khoảng nào anh cũng phì cười. Nó vừa
lộn xộn, tuỳ tiện vừa máy móc: Chỗ cao thì trồng lúa. Chỗ thấp
trồng khoai lang, ở dưới đầm lầy thì có mương dẫn nước.Trên cánh
đồng bãi rộng mênh mông trồng lúa thì không có lấy một cái rạch.
Cần nước thì phải chạy ngược chạy xuôi, mổ gà lợn lạy lục trên
huyện, thuê trong, thuê ngoài các loại máy về bơm. Chỉ tính tiền
công thì đã quá tiền thóc thu được. Đấy là chưa kể lợn gà và gạo,
rượu, phải ”xân xiu“ ở các khoản khác. Công một lao động chính của
các đội cấy lúa là nửa lạng thóc. Cũng là do đã ”bắn“ một số khoản
sang chỗ khác mới được thế.
Còn ở phía bãi bồi sông dài gần mười ki-lô-mét chạy dọc phía ngoài
xã, có chỗ rộng gần một ki-lô-mét, chỗ hẹp nhất cũng hơn năm trăm
mét thôi thì đủ thứ tuỳ tiện. Xoan và xà cừ, phi lao và chuối, lạc
đậu, vừng, ngô, lúa lốc, sắn và khoai lang, dong riềng và sắn dây,
bí ngô và su su, dưa gang, dưa đỏ, dưa lê, dưa chuột, su hào thuốc
lá, hành và mía. Ngừơi ta bảo với Sài đấy là đất khoán. Mùa nào
thức ấy, ai muốn trồng gì thì trồng rồi quy ra ngô nộp cho hợp tác.
Sài nhìn thấy việc gì, nghe thấy chuyện gì, đến chỗ nào cũng thấy
ngứa mắt, thấy bực bội, thấy ao ước, thèm khát một cung cách, một
sự thay đổi. Nhưng góp ý với ai? Sẽ đi tới đâu? Đã bao nhiêu cơ
quan, chuyên viên đến đây chắc họ cũng đã góp ý, chỉ thị, đã có
hàng loạt những nghị quyết và biện pháp! Người đi làm cũng như
người ở nhà, người đi Tây cũng như người đi buôn, cũng quần loe áo
chẽ, hon đa các loại, rađiô, cát sét các loại, đám cưới cũng đài
loa. Có đám cũng có cả Micrôfôn, không cần dây để ”kính thưa hội
hôn“... Nghĩa là cũng có những thứ tiên tiến, những con ngừơi mới
mẻ, nhưng vì sao mấy chục năm qua vẩn luẩn quẩn, vẫn tù túng, vẫn
không thoát khỏi đói nghèo. Có nên nhân danh một đứa con của làng
xã, một người cộng sản phát biểu thẳng thắn những suy nghĩ của mình
không???.
Tiến, bí thư huyện uỷ xuống xe định bước vào phòng, nghe tiếng gọi,
anh quay lại. Ngớ ra vài giây nhìn ngừơi đang cười đi về phía
mình:
- Ô anh Sài! Về khi nào? Chết chửa, độ này trông già quá, tôi không
nhận ra nữa.
Không phải từ hôm cùng chú đến thăm Sài và nhìn vào tình cảm của
ông, Tiến mới quý mến anh. Năm Sáu Ba Tiến là cậu học sinh lớp tám
đến thăm chú trong dịp hè đã nghe chuyện học hành của Sài và mấy
lần xuống bếp trung đoàn bộ lấy cơm của cậu đã tìm cách ”xem mặt“
anh. Hôm đến nhà, Tiến nhận ngay ra Sài nhưng phần đi cùng chú,
phần biết Sài không để ý đến mình anh vẫn làm ra vẻ chưa quen. Kéo
Sài vào phòng vừa pha nước, đưa thuốc mời anh Tiến vừa kể về cái kỷ
niệm ấy. Rồi đi Liên Xô học ngành cơ khí, rồi về nước được điều vào
công tác ỏ một huyện thuộc khu Bốn, hai năm sau vào Đảng. Rồi trúng
thường vụ. Đảng ủy làm trưởng trạm máy kéo sau được điều làm phó
chủ tịch phụ trách nông nghiệp. Rồi trở lại Liên Xô, học nghiên cứu
hai năm sau về công tác ở Bộ Nông nghiệp, sau đó được điều xuống
tỉnh làm phó ty nông nghiệp Tiến đã ”khai lý lịch“ theo những câu
hỏi ”sau đó“ của Sài.
- Anh về từ hôm nào? Sao hôm nay mới vào đây. Gần một tháng nay tôi
phải nằm dưới xã cũng không gặp anh Tính. Mấy lần lên Hà Nội nhưng
lần nào cũng cập rập, không sao vào anh được
Tiến báo văn phòng làm ”cái gì“ để anh tiếp khách. Sài từ chối vì
anh đã chuẩn bị chiều nay hai bố con về Hà Nội.
- Xong! Anh cứ chuẩn bị đi. Sáng mai sáu giờ tôi qua đón anh. Cũng
may tôi về Hà Nội ngày mai nếu không anh cũng chẳng tìm được tôi ở
chỗ nào
Sau những ”thủ tục“ ấy Sài mới hỏi Tiến:
- Anh xuống Hạ Vị luôn không?
- Thú thực với anh hơn hai năm về đây mới xuống đó được ba
lần.
- Anh thấy tình hình ở đây thế nào?
- Chính tôi cũng đang đau đầu về nó. Một vùng đồng đất màu mỡ nhất
huyện mà lại nghèo đói, lạc hậu nhất. Hàng chục năm nay nó không có
sản phẩm gì đóng góp cho Nhà nước ngoài mấy tấn lợn, dăm trăm con
gà, vài chục tạ chuối tiêu, mươi lăm tạ đậu xanh, ít lạc, ít đậu
nành... - với nó là to, nhưng chỉ đủ làm ”gia vị“ cho các cuộc liên
hoan, có ra tấm ra món gì đâu. Ngoài các thứ đó ra năm nào huyện
cũng phải cứu tế, phải bán hàng trăm tấn gạo mà đói vẫn hoàn
đói.
- Nhưng nó lại vào loại xã trung bình khá của huyện?
- ấy nó khó thế đấy. Những ”thằng“ Dại, Thuần, ”thằng“ Bình Mễ sản
lượng bao giờ cũng tăng, nộp và bán nghĩa vụ cho Nhà nước, năm nào
cũng vượt đời sống nông dân cao vào loại nhất nhì trong tỉnh, nhưng
nghĩa vụ quân sự không năm nào là không vất vả mà vẫn không đạt.
Dân công đắp đê, đào sông, đắp đập, làm đường những ”thằng“ ấy cũng
thay nhau bét huyện. Nhiều lần Hạ Vị làm xong suất của mình rồi còn
đi làm thuê cho các xã kia. Mấy năm gần đây, anh nào nhận phần các
công trình đều gạ thuê Hạ Vị. Được cùng làm một khu với dân ”Phường
thổ“ thì hoàn toàn yên tâm. Nghĩa vụ quân sự nó nhất. Nghĩa vụ dân
công nó nhất. Đóng góp tre, rào kẻ đê, làm trường cấp ba, bệnh
viện, họp hành... cái gì nó cũng có. Cứ đi thi và làm tổng kết, báo
cáo thì bao giờ nó cũng nhất. Chỉ mỗi tội đói. Kể ra mà huyện không
bán cũng không chết. Nhưng ai nỡ nhẫn tâm. Thú thật với anh tôi đi
chưa được nhiều nhưng những nơi tôi đã đến không thấy ở đâu đầu tắt
mặt tối, lam lũ như làng anh. Có nhà hàng năm không biết đến hạt
gạo, trừ ngày tết, lúc ốm đau. Gạo cứu tế họ toàn phải để phòng xa
chứ đâu dám ăn.
- Theo anh thì do cái gì?
Ngẫm nghĩ một chút Tiến tiếp:
- Mấy năm nay tôi cũng đặt câu hỏi đó. Đến bây giờ vẫn chưa được
kết luận chính thức ở thường vụ. Riêng tôi, nguyên nhân chủ yếu vẫn
là đội ngũ cán bộ chủ chốt của xã. Nói đúng ra nếu chỉ có được một
người chủ trì biết cách làm ăn và dám chịu trách nhiệm thì nó cũng
khác đi.
- Chả nhẽ mấy chục năm nay cả xã không có được người nào như anh
nói.
- Tôi không rõ lắm. Nhưng tôi tin là có. Có người như thế lại phải
có người của cấp trên dám tin. Dám giao trách nhiệm, dám nhìn thẳng
vào thực chất của xã. Không vì sĩ diện, không vì thành tích các mặt
khác, dám phá bỏ một nề nếp, một thói quen, tìm ra một cung cách
phù hợp nhất, đúng với nó nhất. Tôi cho là khi ở xã có ngừơi như
thế thì huyện lại không ủng hộ, hoặc không ưa, hoặc không nhìn ra,
hoặc vì trăm thứ khác ràng buộc, người nọ nhìn người kia, cơ quan
này sợ cơ quan khác, sợ không đúng quy cách của tỉnh. Khi huyện
thèm một người như thế thì lại kiếm không ra. Những người kỳ cựu
nhất của xã có kinh nghiệm, hiểu biết thì bản thân họ vốn ”tròn“
hoặc ”bị gọt tròn“ cho vừa huyện, vừa tỉnh.
- Tệ tham ô ăn cắp trong ban quản trị có là nguyên nhân chính khiến
bà con làm được miếng nào bị ăn hết miếng ấy?
- Không, chuyện ấy có. Nhưng không phải là quyết định. Nó làm ra
mười, cứ cho là nó đã ăn cắp bảy đi, thì người làm cũng còn được
ba. Đằng này, không làm được cái gì mà lại ăn cắp, ăn chặn, mới khổ
dân chúng. Nói thế không có nghĩa là mình dung túng bọn ăn cắp.
Trong hai năm qua tôi đã giải tán hai chi bộ vì tội đó. Mình có đủ
công an, toà án, kỉêm sát, chính quyền, hàng chục cơ quan của
huyện, có pháp lý, luật lệ, có nghiệp vụ, có quần chúng ủng hộ, đầy
đủ sức mạnh để bóp chết cái tệ nạn ấy sợ gì. Khổ nỗi những nơi như
ở Hạ Vị không có người để mà bấu víu, phất nó đứng dậy.
- Bí thư Hạ Vị tận tình tốt bụng và cũng mới mẻ đấy chứ.
- Anh ấy là ngừơi rất tốt. Nhưng thiếu ”cái đầu“ cũng không ra của
được. Ngày xưa các cụ bảo ”một ngừơi lo bằng một kho người
làm“.
- Huyện đầu tư cán bộ và ”vực“ nó.
- Đã làm nhiều rồi chứ. Nhưng dựng dậy xong mình về huyện nó lại
”ngã“. Với lại huyện đâu chỉ có một xã đẻ mà làm thay mọi
việc.
Đã định gặp bí thư cốt để ”kêu“ hộ nỗi thống khổ của dân chúng Hạ
Vị, nhưng không ngờ Tiến đã biết mọi chuyện ngóc ngách còn hơn
mình. Thành ra Sài chỉ đóng vai ”tìm hiểu“. Hai người nói chuyện
với nhau đến khi chánh văn phòng mời sang nhà khách ăn cơm, Tiến
mới nhận ra mình vẫn mặc bộ quần áo lao động màu xanh, hằn trắng
từng vệt mồ hôi muối. Anh bảo đợi cho anh dội qua mấy gầu nước
nhưng vẫn không quên hỏi Sài:
- Anh thấy có cách gì gỡ cho ”thằng“ Hạ Vị?
Tiến ngồi xuống rót nước, cử chỉ như bảo Sài ”ta cứ bình tĩnh trao
đổi với nhau đã“. Sài thận trọng:
- Bé đi học, lớn đi bộ đội, người ở quê cũng coi như người thiên
hạ, tôi hiểu không thật chắc lắm. Chỉ có một điều tôi cứ tự hỏi và
ước ao: Tại sao không chuyên canh một loại cây trồng nào đó vừa
thích hợp với đồng đất, vừa có giá trị thu hoạch cao mà tôi tin là
không thể nơi nào cũng cho năng suất cao bằng nó.
Tiến nhổm hẳn người vươn hai tay nắm lấy bàn tay Sài:
- Rồi. Rồi! Từ hôm đầu tiên về huyện đi qua Hạ Vị cho đến nay tôi
vẫn phẫn uất về sự nham nhở trên cánh đồng của nó. Anh rời tay Sài
ngồi xuống buồn rầu: - Chả nhẽ tôi lại xuống làm chủ nhiệm ở đây.
Còn nói thì các anh cũ ở đây bảo là nói với nó nhiều rồi và cũng có
làm rồi đấy.
Cả hai người đều còn băn khoăng về cái làng Hạ Vị khốn khổ, chánh
văn phòng đi qua cửa, Tiến như giật mình đứng dậy:
- Có dịp nào tôi với anh bàn thêm. Ta quan tâm đến nó vừa là tình
cảm, vừa là trách nhiệm.
Khi ăn cơm và uống nước Tiến mới có dịp hỏi thăm Châu và tình hình
cháu thứ hai. Lúc anh ra về, Tiến gửi cho cháu hai hộp sữa và cho
cu Thuỳ gói kẹo của người bạn vừa ở nước ngoài về. Buổi gặp này
cùng với những ngày ở làng đã gây cho Sài một tâm trạng vừa gần
gũi, yêu thương vừa day dứt bực bõ, với làng quê, nơi đã sinh và
nuôi lớn mình. Vừa không thể nào dứt nó. Vừa thấy nó với mình tách
biệt khó có thể chấp nhận. Anh đạp xe về đến chợ Bái thì nghe tiếng
gọi dù mấy năm không gặp nhau anh vẫn nhận ra tiếng Hương và anh
trở nên luống cuống. Những thứ gì Hương gửi, anh Hiểu đều nói là
của người này, người kia nhưng Sài đều biết đó là của ai. Anh thầm
cảm ơn Hương. Đã biết Hương không bao giờ thích màu mè khách sáo,
anh vẫn múôn có dịp nào gặp để nói câu gì đó, không biết là sẽ nói
gì, nhưng bằng mọi cách phải chứng tỏ để Hương biết là tất cả những
thứ Hương gửi cho đều rất quý rất có tác dụng giúp Sài vượt qua
những ngày rét buốt. Cả hai đều không biết nhau về quê. Hương đã ở
nhà được hai ngày, cũng chưa đến được anh Tính. Hương đi về nhà
mình để Sài dắt xe theo. Đến đoạn vắng ngừơi, anh đi gần lại
hỏi:
- Lấy tiền đâu mà sắm sửa cho anh lắm thứ thế.
Hương giãy nảy lên:
- Này này ông ơi, cẩn thận đấy. ở nhà đã ai biết chưa?
- Làm sao mà biết được kia chứ. Nhiều lúc em cứ lo quá không cần
thiết.
- Không thể cứ tô tô như anh để mà tan nát hết à.
- Cẩn thận được như anh đã có mấy người!
- Phải cẩn thận lắm mới thế.
Sài hơi lặng đi. Hương biết mình lỡ lời nhưng cô không cần chữa
lại. Về đến nhà cô bắt Sài kể đầu đuôi vì sao để đến nỗi tiều tuỵ
như thế này.
- Mọi chuyện xảy ra ở gia đình anh chắc em biết!
- Chưa.
- Anh Hiểu, anh Tính không nói gì?
- Không bao giờ em đi hỏi như thế.
Quả là Hương không hề hỏi các anh ấy. Nhưng chuyện gì xảy ra ở nhà
Sài , Hương đều biết cả. Cô muốn anh kể, vừa như là kiểm tra tình
cảm của anh với vợ, vừa kiểm tra lòng thành thật đối với cô. Phần
khác, cô muốn bắt anh làm một cuộc ”thú tội“ về những sai lầm do
trước đây không nghe lời cô. Sài kể thành thật về mối quan hệ của
vợ chồng anh. Hương thở dài khuyên anh đằng nào cũng lỡ, nên vì
những đứa con mà nhường nhịn bỏ qua cho nhau. Sài bảo:
- Cũng phải thế thôi, bằng cách nào khác được.
Cô lại phải cố nén môt hơi thở dài rất buồn rầu. Và, đến lúc ra về,
trong nhà chỉ có hai người Sài nắm lấy tay cô, cô giật phắt, mạt
cau lại khó chịu.
- Anh rất buồn cười, không còn ra thế nào nữa
Có lẽ từ khi yêu Hương đến giờ, đây là lần đầu tiên Sài cảm thấy
xấu hổi cho đến ba năm sau khi gặp lại Hương ở quê Sài vẫn thấy
mình sượng sùng, không dám nhìn vào khuôn mặt cô đang nóng bừng
bừng trong cái đêm trăng khuyết của ngày 26 ta.
..................................................
bạn đang đọc truyện tại yeutruyen.wapsite.me chúc các bạn vui vẻ
.....................................................
Chương 12
Chị đã biết tin gì chưa?- Cô gái lúc đầu là bạn của Châu về sau là
bạn chung của cả hai người. Cô ta nhiều tuổi và khôn ngoan hơn
Nghĩa. Nhưng Nghĩa đối với Sài thế nào cô cũng bênh và thương Toàn
hệt như thế. Ngày xưa mỗi lần gặp Châu, nhìn vẻ mặt trịnh trọng của
cô ta Châu biết thế nào cũng có một chuyện gì đó ở Toàn. Đã vài ba
năm nay, thỉnh thoảng đi đường trông thấy nhau gật đầu một cái rồi
đường ai nấy đi, việc ai nấy làm. Lần này thấy Châu, cô ta reo quớ
lên xuýt nữa đâm xe vào người khác. Đã lấy chồng có con, tính nết
vẫn không thay đổi chút nào. Đáp lại vẻ hào hứng trịnh trọng của cô
là sự chán chường của Châu:
- Với mình lúc này không có gì quan trọng cả.
- Vợ chồng anh Toàn ly hôn rồi đấy.
Châu nổi cáu:
- Thế thì có liên quan gì đến mình.
Cô gái kia bị hẫng, đần mặt ”chịu tội“. Một lúc sau cô mới dè dặt
thanh minh.
- Em tưởng... chị...
- Cậu vẫn tưởng mình đánh đu theo đuổi hắn đấy à?
Cái mẩu tin ngắn ngủi đã làm Châu giận dữ trước mặt bạn sao lại có
thể bám riết lấy cô suốt đoạn đường từ cơ quan về nhà! Có thể anh
ta đã làm đúng như là đã bàn với mình: ”Anh còn nóng ruột gấp mười
lần em. Nhiều mối phức tạp lắm, phải từ từ lựa thời cơ. Lúc nào đặt
vấn đề là chắc ăn nếu không khéo họ phát hiện ra quan hệ của chúng
ta, khó lòng giải quyết được. Cứ để cho anh lo việc này em nhé!
Đồng ý không nào? Em anh ứng phó mọi việc rất giỏi mà đôi lúc cũng
hơi nóng nảy đấy...“ Chưa bao giờ anh ta giận dỗi, chấp nhặt và cãi
nhau vặt với mình, kể cả lúc mình đã tát anh ta. Đi với anh ta mình
luôn luôn chỉ là đứa trẻ con đành hanh. Anh ta nghe theo mình tất
để lúc khác lại nói lại làm mình cứ phải đần mặt ra nghe. Vừa ân
hận vừa xấu hổ cứ phải bịt mồm anh ta lại: ”Thôi thôi, em không cho
nói nữa“. Mặt Châu bỗng nóng bừng lên. Cô căm tức với những ý nghĩ
của mình. Cô xua đủôi nó bằng cách đạp xe như lao về nhà, quên cả
mua rau. Nhìn thấy chồng bế con ở nhà trẻ về, cô vội vàng thú
nhận:
- Em quên không rẽ qua chợ mua rau rồi. Sợ anh về muộn con
mong.
- Thôi ta ăn ”khan“ một bữa vậy. Em chơi với con để anh nấu
ăn.
Chưa mấy khi cô cảm thấy yêu chồng, yêu con như bủôi chiều hôm nay.
Anh ấy cũng độ lượng quá, tốt bụng quá. Một tình cảm vừa bùng cháy
vừa hoảng sợ khiến đang đêm khi các con đã ngủ, cô sang chiếc
giường một ôm chầm lấy anh và ”chiều em một tý“. Đến khi ngây ngất
trong niềm sung sướng cô siết chặt lấy anh như thể lơi ra thì anh
sẽ chạy mất. Vừa rên rỉ cô vừa dặn: ”Yêu em anh nhé“. Anh gật đầu
uể oải.
- Sao độ này anh ít nói thế.
- Anh mệt.
- Em làm anh buồn phải không?
- Không.
- Nói dối em.
Vẫn là ấm ức giận hờn, lúc này anh chồng đã cảm động tin vào tình
yêu mãnh liệt mãi mãi của vợ dành cho mình. Nhưng. Sáng hôm, từ rất
sớm, nấu cơm xong khi vợ chưa dậy làm phần việc của cô tiện bếp anh
đun sữa cho con. Khi vợ dậy rửa mặt cho bé Thuỳ và đánh răng, anh
bế đứa nhỏ lau miệng nước muối rồi cho con ăn. Vừa dốc ngược chai
sữa vào miệng con anh đã thấy cô nhảy từ cửa bếp lên giật lấy chai
sữa: ”Sao ngu thế? Ai bảo cho con ăn cái sữa này!“ Cô vừa dốc ồng
ộc chai sữa xuống rãnh nước vừa than vãn:
- Khổ ghê cơ. Làm gì cũng lau cha lau chau. Ngần ấy tuổi đầu không
hề biết tí gì. Nhìn hộp sữa vàng khè vẫn đem cho con ăn. Liều lĩnh
đến thế là cùng. Tại sao thấy sữa thế anh không hỏi.
Anh ngồi lặng không thể nói được câu gì. Cũng như mọi lần ”va
chạm“, không bao giờ cô là người phải ”xuống thế“ làm lành nên cuộc
”chiến tranh lạnh“ lại xảy ra như hàng trăm lần trước đây. Chỉ có
khác là hơn tám tháng nay kể từ khi có đứa con thứ hai mỗi lẫn giận
nhau Châu không nấu ăn riêng và Sài không đến ngủ ở bàn làm việc
của cơ quan.
Sự im lặng nín nhịn của Sài làm cho Châu có phần nể sợ, đồng thời
cô phải dè chừng sự thay đổi ”tốt“ lên một cách khó hiểu. Có thể
bạn bè và gia đình đã là cho anh ta chán ngán cuộc sống với vợ con!
Châu tự đặt câu hỏi rồi lại gạt đi. Biết mình còn thừa sức ”dắt
mũi“ anh ta theo, cô hoàn toàn tin ở cách sống và sự điều khiển của
mình đối với anh ta. Cả tuần lễ, vẫn việc ai người ấy làm. Sài nấu
cơm, giặt giũ, đón Thuỳ ở nhà trẻ, đi xếp hàng mua gạo mì, dầu, và
các tiêu chuẩn đột xuất khác. Châu cho đứa bé ăn, tắm cho cả hai,
mua các tem phiếu thực phẩm và trông con. Họ chỉ nói với nhau những
gì thật cần thiết mà cu Thuỳ không thể truyền đạt nổi. Thằng bé rất
thích với công việc nghe người này xui để sai bảo bắt bẻ người
khác. Cả bố và mẹ đều phải nghe lệnh của thằng bé.
Giận nhau hơn một tuần, theo lệ thường cũng đã đến hạn phải làm
lành với nhau, nhưng chưa có cớ thì Châu gặp Toàn ở giữa đường.
Đang lai con đi mừng đám cưới của một đứa bạn, tự nhiên con giật
đuôi áo: ”Mẹ ơi, bác Phòng, bác Phòng“- ”Bác Phòng nào“- ”Bác Phòng
vẫn đến nhà trẻ cho con kẹo với bao nhiêu là thứ đấy“. Châu chưa
kịp nhìn lại, Toàn đã đi đến bên. Cu Thùy nhảy nhôm nhổm ở sau xe
reo: ”A bác Phòng đây rồi, hay, hay quá, cháu chào bác Phòng ạ“.
Châu không ngờ các thứ đồ chơi và bánh kẹo con mang về khoe bác
Phòng bố của bạn con cho lại là Toàn. Nhưng cô không xỉ vả chạy
trốn anh như mọi lần. Cô chỉ chau mặt lại.
- Sao anh liều thế?
Toàn hỉêu Châu mắng anh tội gì. Anh đi gần ngang mặt cô nói
nhỏ:
- Tha lỗi cho anh, anh nhớ con- Thấy Châu trợn mắt ngoái về phía
sau:- Anh nhớ cháu quá. Ngoài công việc ra, anh có ai chơi bời
ngoài Thuỳ đâu.
Châu không dám nhìn anh. Cô vẫn hình dung ra nỗi đau khổ hiện trên
khuôn mặt trái xoan và trong đôi mắt đầy nỗi u buồn của anh. Kể
cũng tội, hai đứa con lớn đi cả, một thân một mình. Thấy chiếc xe
của mình hơi chệnh choạng, nhưng cô vẫn phải cố nói một câu đầy
kiên quyết:
- Em nói lại: từ nay anh không được đến chỗ nó nữa. Câu nói như một
nhát chém ngang mặt khiến Toàn hơi so người nhắm mắt lại. Anh trút
ra hơi thở dài đau đớn.
- Thôi được, anh không dám làm trái ý em. Em cầm hộ cho con à cho
cháu cái này hộ anh.
Nói rồi anh nhanh chóng quàng chiếc bị cói đang là ”mốt“ của những
người sang trọng hiện nay sang ghi đông xe Châu. Châu chưa kịp phản
ứng đã nghe một câu thật tội nghiệp.
- Thôi mẹ con đi kẻo có người trông thấy.
Không để cho cô nói gì anh đã vòng xe quay lại. Ruột gan Châu thậm
thột không yên. Cu Thuỳ lại giật áo: ”Mẹ ơi bác Phòng đâu rồi?“-
”Bác ấy về nhà bác“- ”Nhà bác ở đâu hở mẹ“- ”Mẹ không biết“- ”Sao
mẹ không biết?“- ”Không quen bác ấy“- ”Thế mẹ có thích chơi với bác
Phòng không“- ”Không“- ”Sao mẹ lại không? Bác ấy yêu Thùy lắm“-
”Thôi không nói nữa. Mẹ mệt lắm rồi“- ”ứ, ừ đi về nhà bác Phòng
cơ“.
Châu đưa con đến đám cưới rồi nhanh chóng trở vè nhà mẹ . Đợi con
chơi với bà, Châu mới vào buồng xem những gì trong chiếc bị cói.
Một bộ quần áo ”bò“ và áo len, quần len, mũ len cho Thuỳ. Cả bánh
kẹo, đường và sữa. Một miếng ”sẹc“ màu cà phê sữa, cô chắc chắn là
dành cho mình. Mới hai tuần trước Châu than vãn với một chị trong
cơ quan là trông miếng ”sẹc“ màu cà phê sữa thèm quá, em thích vô
cùng nhưng không có tiền đành chịu. Tại sao anh ta lại biết chuyện
này! Châu luống cuống xếp mọi thứ như sợ ai thấy. Ngoài bánh kẹo,
đường sữa ”bà và các bác cho“ còn vải và quần áo cô để lại chỗ mẹ.
Như rất nhiều lần khác gặp Toàn hoặc có chuyện gì liên quan tới anh
khi trở về nhà cô vừa lo ngại vừa cảm thấy thương chồng hơn. Muốn
làm tất cả mọi việc để chứng tỏ mình rộng lượng, bao dung với chồng
con, thấy thèm sự đầm ấm khi lòng mình đang trống trải. ở nhà, Sài
đang nói chuyện với ”chú“ lai gạo hôm trước. Thấy ”chú“ Châu mừng
rỡ thực sự vì nhiều lẽ. Thứ nhất Châu rất quý sự tận tình của
”chú“. Thứ hai đang lúc ruột gan rối bời nếu lại gặp khuôn mặt lạnh
giá của chồng thì khổ vô cùng. Phần khác, quan trọng hơn: Châu biết
Sài nghi kỵ những mối quan hệ của cô với các ”chú“ các ”anh“. Với
những người đó Châu chỉ thấy họ rất tốt với Châu, giúp đỡ Châu bao
nhiêu việc lớn nhỏ mà không hề đòi hỏi, nhờ vả ở Châu việc gì.
Ngoài đó ra Châu thấy họ hoàn toàn vô tư và cô cũng rất ”trong
sáng“. Nếu Sài nghi họ tức là đánh vào chỗ trống. Nhân ông ”chú
nuôi“ đến đây Châu tỏ rõ mọi sự thân thiết quý mến để Sài có biểu
hiện sự nghi kỵ nào đó, cô sẽ làm to chuyện lên. Mọi người nhìn sự
”cọc cạch“ quá thể giữa Châu và ”chú“ sẽ nghĩ anh chàng này đa
nghi, ghen tuông vớ vẩn không đâu vào đâu. Cái tiền lệ của sự vô lý
giúp cô nếu không may có chuyện gì nghi vấn về mối quan hệ giữa cô
và Toàn sẽ không ai coi chuyện đó là có thật, thậm chí người ta
không thèm để ý đến nó. Một trong những dự kiến của Châu đã xảy ra.
Cô rất hài lòng. Sài tiếp ”chú“ rất nhiệt tình và thành thật. Châu
không hỉêu hết lý do vì sao hai người lại có vẻ rất thân thiết. ít
hôm sau Sài chỉ bảo: ”Em quý mến ai anh cũng quý mến người đó có gì
là lạ“. Nhưng cái chính là từ lâu, khi phát hiện thấy vợ có vẻ
không thành thật trong cuộc sống vợ chồng anh quyết định không
”theo“ làm gì những mối quan hệ của cô cho mệt. Được đến đâu hay
đến đó. Khi ông ”chú“ mới đến, nhìn mặt ông ta Sài cũng biết ông
”chú“ này chắc cũng có nhiều ”cháu“ gái nuôi. Ngồi một lúc thấy ông
vén quần gãi ghẻ sồn sột và quần áo mặt mũi đều rất ”cũ“ anh biết
cô vợ ranh ma của mình chỉ lợi dụng ông già khốn khổ này hầu hạ. Tự
nhiên anh thấy thương hại ông. Hai người trở nên thân thiết như
bạn, như là chú cháu thật. Châu bảo:
- Chú ở đây ăn cơm. Đằng nào cũng đến bữa rồi. Mà ăn mãi với bà
lão, hôm nay ở đây với các cháu một bữa.
Ông chú đang ngần ngừ Sài tiếp:
- Chú ngại tối, ăn xong cháu đưa chú về.
- Không ngại gì nhưng...
- Thôi, không nhưng gì nữa. Anh bế con ngồi với chú để em
làm.
- Thôi đưa cháu cho ông, cùng làm cho nhanh.
Thế là gần hai tuần lễ mới lại có cớ để mặt mũi được giãn nở một
chút, lòng dạ đỡ âu sầu u uẩn. Sau những ngày làm lụng vất vả,
những đêm đau đáu trong nỗi bực bội, cái hy vọng êm thấm lại hé mở.
Sài đặt mình xuống đã ngủ say. Nghe tiếng ngáy đều đặn rất vô tình
của chồng ở giường bên Châu lại càng thấy mình lẻ loi. Lúc vui vầy
cũng như khi buồn đau không có ai chia sẻ, san vơi, sống với chồng
như sống với hàng xóm trái tính. Tiếng rè rè của đứa con nhỏ cắt
đứt nỗi dằn vặt của ngừơi mẹ. Cô vùng dậy bật đèn thay tã cho con.
Đứa bé không ăn đêm như anh. Chỉ đến tám giờ đặt xuống là ngủ lăn,
ngủ lóc không khác gì bố. Còn thằng Thuỳ đêm nào cũng ngủ chập
chờn. Cả khi ngủ rất say mặt mũi vẫn nhăn nhó đau khổ trông nó có
một cái gì đấy khiến nhiều khi nếu không phải là khuya khoắt cô
không dám nhìn. Đến bây giờ tự nhiên cô vươn người trùm cả khuôn
mặt mình lên mặt con hôn hít chùn chụt vào má, vào mái tóc cum cúp
của nó. Thằng bé giật mình khóc ré lên. Cô vội vàng: ”Mẹ đây, mẹ
đây“: Rồi cứ ôm con ngồi như thế. Ngoài mình ra không còn bất cứ ai
có thể thương yêu nó, chăm lo cho nó nên người.
Với tình yêu, kẻ biết dối trá thuần thục bao giờ cũng lôi cúôn
người con gái hơn rất nhiều những ngừơi chỉ biết biểu hiện lòng
thành thật. Ngừơi con gái mới lớn đã yêu người đàn ông có vợ, có
con và chung sống với nhau một cách tự nguyện thì không bao giờ lại
có thể yêu đắm đuối được cậu con trai ”chay tịnh“ cùng lứa tuổi với
mình. Toàn biết rất rõ Châu càng ”căm thù“, càng xỉ vả và càng
chứng tỏ cô yêu anh. Gục vào lòng hay tát vào mặt đều là những biểu
hiện của tình yêu, có gì là lạ. Anh cũng biết anh chàng bộ đội nhà
quê không thể làm sống dậy tình cảm thiêng liêng của Châu nên anh
không việc gì phải lo sợ hốt hoảng khi cô đi lấy chồng. Từ hơn mười
năm trước, đánh ”cắp“ được tình yêu của Châu như cô nói, dù không
còn yêu vợ, Toàn vẫn quyết định duy trì một gia đình song song với
một tình yêu mà sau này ngừơi ta gọi nó bằng cái danh từ không lấy
gì làm đẹp đẽ: ”Bồ“. Không ai hầu hạ mình bằng mụ vợ đã có hai con
lớn và ”mất thế“ cả về tuổi tác lẫn sự hấp dẫn. Ra khỏi nhà lại
không có gì đốt cháy lòng khao khát bằng tình yêu vụng trộm. Nhất
là với Châu, một cô gái từng đánh bật hàng chục hàng trai trẻ lại
thuộc về mình, cam chịu là ngừơi vợ không chính thức, đã có hai mặt
con kể cả sống và chết thì không có gì thoả mãn hơn thế. Bằng bộ
mặt đau khổ, giọng nói và cử chỉ đau khổ, anh đã tạo ra một mụ vợ
nanh ác độc địa làm khổ cuộc đời anh để Châu phải thương xót và tin
là anh đang tìm cách ”giải phóng“ để đến với mình. Nếu không hoảng
hốt khi có thai bé Thùy cô không nổi khùng quyết liệt đến mức ấy.
Vài ba năm nay, thằng con lớn đi bộ đội, thằng bé đi học công nhân
nước ngoài, cái mối ràng buộc giữa anh với gia đình như bị đứt. Chỉ
còn hai vợ chồng. Người vợ lại sinh bệnh tâm lý luôn luôn hoảng sợ
chồng khinh thường, chồng chán mình. Ra khỏi nhà là chị đánh phấn
bôi son, thậm chí đi công việc gì về đến nhà là nghi ngờ, tra hỏi.
Cái giống đàn bà kỳ cục thật. Lúc ngừơi ta đi ngủ với gái thì tin
là chồng đứng đắn nhất, đến khi bị ruồng bỏ múôn quay về với vợ con
lại bị nghi ngờ. Ngày nào cũng có điều to, tiếng nhỏ. Tuần nào cũng
xẩy ra xô xát, giập vỡ. Toàn làm đơn ra toà không có chữ ký của vợ.
Hơn một năm ”hoà giải“ không được, toà cho hai ngừơi ly hôn. Không
cần hỏi ai, Châu tin ngay việc Toàn bỏ vợ có từ xưa, nhưng chưa có
thời cơ như anh nói. Cô ân hận về sự vội vàng ích kỷ của mình. Chả
để làm gì nhưng thấy tồi tội thế nào ấy. ”Bác Phòng nhà ai“?- ”Bác
Phòng nhà bạn con“- ”Bạn con là gì“- ”Bạn con là không biết...“
”Không được, bạn con là Lộng“- ”Bạn Lộng là ai?“- ”Bạn Lộng là con
bác Phòng“ ”ừ đúng rồi giỏi lắm con nhớ chưa?“- ”Con nhớ rồi ạ“
”Thế hôm nay Thuỳ đi đâu?“- ”Thùy đến cơ quan mẹ“.
Cho con đến cơ quan chơi, đang trên đường về gặp ”bác Phòng“ nào đó
là bố bạn Lộng ở lớp con ngày trước thế là cậu cứ đòi vào chơi nhà
bạn đành phải cho con rẽ vào đấy một tý. Đã hàng chục ngày rập rời
trong cái ‘cớ“ ấy và trên đường đi, cả trước và sau khi đến cơ quan
Châu đã luyện cho con thuộc lòng những lời dặn, lai con đến trước
cửa nhà Toàn Châu lại thấy run bắn lên như cảm lạnh. Cái căn phòng
trên gác hai, một mình nó một cầu thang riêng biệt phía ngoài năm
năm về trước, vào giờ hành chính khi vợ Toàn đang làm việc ở nhà
máy phân lân tại Văn Điển thì Châu đến đây hàng giờ, hàng buổi, có
khi ăn cơm và nghỉ trưa tại đây, tự nhiên và chủ động như ở nhà
mình. Bây giờ nhìn thấy nó Châu lại hoảng sợ. Toàn lang thang một
mình mấy tháng nay. Bị cấm không được đến thăm Thuỳ cũng tội cho
Toàn. Nghĩ thế, Châu đã định mấy lần cho con đến đây. Chần chừ mãi
hôm nay mới liều. Tần ngần một lúc bên hiệu kem, cuối cùng cô quyết
định không vào ”Mẹ ơi đứng đây làm gì?“ ”mua kem nhưng đông lắm
không mua được“- ”ừ, ừ phải mua kem cơ“. Châu nhờ người mua được
que kem cho con xong, vừa dắt xe đi một đoạn Toàn đứng ngay trước
mặt: ”Mẹ con đi đâu thế này?“ Châu đỏ bừng mặt lúng túng: ”Đến cơ
quan, cháu nó đòi mua kem“. Cu Thùy reo ”Bác Phòng, hoan hô bác
Phòng!“. Nó nhoai người ra, Toàn chìa một tay cho nó bíu, anh nhắc
thằng bé ra khỏi chiếc ghế mây.
- Cho con vào chơi với anh một tý.
- Không, không được đâu.
Châu nói yếu ớt khi Toàn đã một tay dắt xe, một tay bế cu Thuỳ đi
vào trong ngõ. Châu đứng tần ngần một lúc đợi anh đi khuất, nhìn
quanh không thấy ai quen cô mới dắt xe vào ngõ nhà Toàn. Châu lên
cầu thang gặp Toàn đi xuống: ”Em lên với con, anh đi mua mấy điếu
thuốc“
Vẫn căn nhà sàn gỗ lim bóng nhẫy quen thuộc, chỉ có cái khác là tủ
đứng và quạt trần, máy khâu và chiếc giường hộp gỗ lát không còn.
Chắc là bà ta khuân đi hết rồi. Trong căn phòng rộng hai mươi tám
mét vuông, chỉ có chiếc bàn con và mấy chiếc ghế kỉểu bàn ghế của
bà hàng nước. Chiếc giường một còn buông màn xô cũ vá víu, phía
trên đầu có một đoạn xích đông treo lơ lửng vào tường đựng chiếc
chăn bông và mấy gói bọc chắc là quần áo. Tất cả thấy rõ người đàn
ông, dù ngăn nắp cẩn thận như Toàn thiếu bàn tay của ngừơi đàn bà
sẽ biến căn phòng thành cái quán trọ. Toàn đem về hai cái bánh tẻ
và một miếng giò lụa to tướng cho bé Thuỳ. Một nải chuối tiêu
”trứng cuốc“ và một gói lá sen phải đến hàng cân cốm, cái món quà
trước đây Châu rất thích. Lên căn phòng hoàn toàn độc lập và yên
tĩnh Châu thấy yên tâm hơn. Cô nói năng có phần tự nhiên.
- Anh mua về làm gì. Mẹ con em đi đây.
Cu Thùy đã phản đối:
- Con ăn chuối với cốm đã.
Toàn như không biết đến lời từ chối của Châu.
- Mẹ cho Thuỳ ăn cốm hộ bác đi.
Thùy bê ngay bọc cốm đặt vào lòng mẹ. Châu miễn cưỡng ngồi cho con
ăn. Đấy là cái cớ để cô không nỡ từ chối trước lời mời như van của
anh:
- Không ăn nhiều em ăn vài hạt để anh khỏi tủi thân.
Bé Thùy cũng giục mẹ, bốc hẳn nắm cốm vào ấp bàn tay tí xíu vào
miệng mẹ. Anh hơi nhìn Châu như muốn nói khi cô vừa ngẩng mặt lên
”Đấy, bố con anh hiểu ý nhau đến thế là cùng“. Châu đỏ mặt vội quay
đi. Đúng giờ nghỉ trưa Châu cho con về cơ quan. Thằng bé lon ton
chạy đi trước. Toàn nói nhỏ.
- Anh không ngờ được một ngày hạnh phúc như thế này. Anh cám ơn em
lắm lắm đấy Châu ạ.
Châu hơi né người, nhặt chiếc nón bước ra cửa như muốn chạy.
- Anh không tiễn mẹ con em nhé.
- Thôi
Chiều ấy đi làm về gặp Hiểu, anh mời một câu ”xã giao“. Châu nhận
lời ngay và cô cho con chơi bời thoải mái đến gần tối mới về nhà.
Trên đường về cu Thuỳ đã phải học thuộc và nhớ câu ”thần chú“ khi
về đến nhà nó phải reo: ”Con vào nhà bác Hiểu bố ạ“.
Sài về từ bốn giờ. Đến năm giờ chưa thấy vợ và con lớn về, anh phải
sang nhà bên đón đứa bé. Hai bố con vừa chơi với nhau, vừa nấu cơm
và làm mọi thủ tục cho con ăn, và giặt giũ xong xuôi mọi việc, vẫn
chưa thấy vợ và con lớn. Đang bực về sự chờ đợi không hề biết
nguyên nhân thì cu Thuỳ ton tót từ ngoài cửa:
- Bố ơi, con với mẹ đến nhà bác Hiểu, bác Hiểu cho bố cả thuốc lào
đây này. Trong túi của mẹ ấy.
Anh vui ngay khi biết lý do mẹ con cô về muộn. Nhưng nếu không phải
đến chỗ anh Hiểu và anh khồng biết mẹ con đã đi đâu thì cũng không
có gì đáng phải nói, đáng hờn giận nếu không có cái buổi tối anh
cũng về muộn sau đấy hai ngày. Do phải tổng hợp số liệu cho bộ
trưởng đi vào miền Nam sáng sớm mai, Sài phải làm đến tám giờ tối.
Đói và mệt lả nhưng trong túi không có đến năm đồng bạc. Không biết
ăn uống cái gì, mà có cũng không dám ăn. Hàng hai năm nay anh không
hề biết mùi phở Hà Nội, hiện nay cứng hay mềm, ngọt hay nhạt. Về
đến nhà thấy vợ đang giắt màn, nét mặt nặng chình chịch anh đã phải
nói cái lý do để anh phải về muộn. Cô lặng lẽ vào màn. Anh vào bếp
lục cơm. Một nồi cơm đóng chóc để ở dưới đất. Một đĩa rau không
đậy. Anh lục tìm nước, bữa cơm nào không có nước rau anh ăn như
nhét rác vào miệng, nhất là đang mệt mà cơm lại nguội khô. Tìm mãi
không thấy, bất đắc dĩ anh phải hỏi:
- Nước canh đâu thế em nhỉ?
Im lặng.
- Còn nước canh không em?
- Đổ cho lợn rồi.
- Em nói gì thế?
- Nói gì? Tưởng không về đổ cho lợn nó ăn rồi.
Một làn hơi cộn lên nóng bừng ở mặt, bàn tay cầm đĩa rau như không
chắc nữa, anh phải quay người lại đặt nó vào chạn rồi đứng gục đầu
vào đấy, hai tay bíu vào nóc chạn. Không rõ vì đói, mệt hay vì cay
cực quá, người anh lả thiếp muốn khuỵu xuống. Phải đến nửa giờ sau
anh mới lững thững ra phía cửa đi đi lại lại cho thoáng rồi vào nhà
hút thuốc và lấy sổ sách giấy tờ xuống bếp bật đèn điện, kê sổ vào
ghế con ngồi cặm cụi viết. Hơn mười hai giờ đêm mới xong công việc,
anh lên nhà đứng phía ngoài màn nhìn hai đứa con đang ngủ. Anh muốn
ôm lấy các con nhưng vướng Châu nằm phía ngoài và sợ con thức giấc.
Cứ đứng nhìn hai đứa trẻ ngây thơ vô tội rồi đây sẽ phải chia ra,
đứa có bố, không còn mẹ, đứa có mẹ thì mất bố. Các con ơi, tha lỗi
cho bố, không bao giờ bố muốn một lần nữa tan tác chia ly, nhưng bố
không còn chỗ nào để lùi nữa rồi. Không còn gì để mà tiếp tục làm
cho các con vui vầy sung sướng. Nếu sau này lớn lên có kết tội bố
thì xin các con đừng lên án hành động của bố trong đêm nay. Bố đã
có tội với các con từ dăm năm trước và xa hơn, từ khi bắt đầu cuộc
đời của bố kia. Hàng tiếng đồng hồ đứng lặng như chết, chỉ còn hai
làn môi động đậy run run và khuôn mặt như méo mó hẳn đi.
Châu ngồi dậy làm cho anh giật mình. Cô bật điện thay tã cho con.
Anh ngồi vào chiếc giường một của mình điềm nhiên không có chuyện
gì xảy ra. Cô ra khỏi màn mang tã xuống bếp vứt vào chậu nước và
làm việc riêng rồi quay lên. Sài đứng dậy chặn cô ở cửa:
- Anh định bàn với em một việc.
- Không có việc gì phải bàn bây giờ cẩ.
- Nếu em không muốn thì để anh nói một câu.
- Muốn nói gì thì nói. Xê ra cho tôi còn ngủ, mai đi làm.
- Cho anh nói đã. Có lẽ chúng mình không ăn ở được với nhau nữa
đâu.
Châu cười:
- Tưởng gì, thế thì dễ thôi, làm đơn đi.
- Đơn anh viết rồi em đọc rồi ký vào.
- Việc quái gì phải đọc cho mệt xác. Đưa bút đây. Cô cầm bút ký vào
bên cạnh chữ ký của Sài ở phần cuối tờ giấy đề Đơn xin lý hôn rồi
quẳng bút sang giường anh, nhanh chóng chui vào giường mình như
không hề có chuyện gì xảy ra.
Bằng lòng tin của mình. Châu đinh ninh là Sài doạ cô, ”Không thể có
chuyện ấy“ nếu người đề xướng không phải là cô. Đến khi toà án có
giấy gọi cô mới ớ người ra, đỏ bừng mặt xấu hổ với xung quanh.
Nhưng vẫn mỉm cười như muốn nói với mọi ngừơi ”Có một ông chồng
hâm, động tý vác nhau ra toà sung sướng thế đấy“. Tuy vậy, cô vẫn
chưa cảm thấy một vấn đề hệ trọng sắp sửa xảy ra. Cho đến buổi đầu
tiên đến toà lấy lời khai và ba lần ”hoà giải“ trong vòng sáu tháng
giời cô vẫn ”yêu“ còn Sài thì khăng khăng ”không còn tình cảm“. Với
lý do ”mười chín lần nấu cơm riêng và mười một lần trong hai bên bỏ
nhà ra đi trong vòng bốn năm chung sống“. Lúc này cô mới hỉêu sự im
lặng chuẩn bị của Sài cả năm nay và cái nguy cơ đổ vỡ không thể cứu
vãn. Với Châu đã thế, những người ngoài kể cả ngừơi thân thiết càng
đột ngột với thái độ của Sài. Cho đến hôm nhận được giấy báo mười
ba ngày sau đến dự phiên toà ”xét xử vụ ly hôn giữa anh Sài và chị
Châu“ Tính mới vội vàng đạp xe lên Hà Nội bàn với chú Hà và Hiểu và
để làm cái việc ”gia đình quyết định“. Hà lạnh nhạt hỏi lại: ”Anh
quyết định cái gì? Nó có thân nó phải lo, anh có ôm được nó từ nay
đến già không?“ Tính hẫng, thuội mặt như đứa trẻ bị đòn... Nhưng
đạp xe đến đây, chả nhẽ lại về không: ”Sểnh cha còn chú, cháu nghĩ
dù sao gia đình nhà mình cũng phải biết rõ đầu đuôi ra sao, có ai
người ta điều ra tiếng vào mình còn biết đường“- ”Khốn khổ, việc
mình mình làm, việc gì cứ phải rập rình xem người khác khen hay
chê, nhìn ý tứ mỗi người một tý để bóp mình theo họ. Thôi được anh
đến chỗ Hiểu báo điện thoại trưa nay thằng Sài đến đấy“.
Tính nói dài dòng về một nề nếp gia đình, về sự thống nhất từng nhỏ
nhặt, về sự bàn bạc, tính toán lường trước hậu quả của mỗi công
việc là rất cần thiết khiến cả Hà, Hiểu và Sài đều sốt ruột. Họ
”trật tự“ và ”nghiêm trang“ giả vờ để anh đỡ ngượng. Anh nói được
những lời rất chân thành sâu xa, chỉ có điều ai cũng biết cả rồi.
Hơn một giờ nghỉ trưa để rồi mọi người lại phải đến cơ quan bù đầu
với bao nhiêu công việc vất vả, những lời nói của Tính không đúng
lúc cứ truội ra khỏi ý nghĩ của mọi người. Nói tóm lại, nó chẳng
vào ai. Mắt ai cũng díp lại, cả ba người vẫn phải tỏ ra mình đang
nghe chăm chú. Anh kết luận: ”Bây giờ chú Sài trình bảy để các ông
và các anh tham gia. Thôi thì anh Hiểu đây cũng coi như anh em ruột
thịt, ta bàn thận trọng việc này. Đây cũng là lần thứ hai
rồi“.
Sài đã rất mệt vì nhiều người ”góp ý“ quá đến bây giờ lại nghe đến
câu ”lần thứ hai“ anh cười lạt cay cú:
- Đến lần thứ mười cũng không sao. Còn bàn, có lẽ hơn một tuần nữa
đến toà án rồi bàn một thể.
- Phải rồi, ông đây và anh em chúng tôi còn là cái thớ gì
nữa.
- Anh đừng nói thế. Không bao giờ em là kẻ bội bạc. Thú thật, em sợ
sự bàn bạc của người này để quyết định số phận cho một người khác
lắm rồi.
- Thế thì việc chú lấy cô ta do những người ở đây đấy à?
- Vẫn tại em. Chuyện này hoàn toàn tại em. Em biết từ bé đến lớn em
cứ phải sống với một người vợ em không thể yêu để đến lúc luống
tuổi, hoắng lên chạy theo cái mình không có, không phải là mình.
Thời trai trẻ không được yêu, đến khi được phép yêu đương thì lại
lớ ngớ như một thằng trẻ con. Một thằng ”vỡ lòng“ trong lĩnh vực
này lại phải đóng vai ngừơi đã từng trải lịch lãm chỉ vì không dám
thú nhận mình là thằng thua kém những con bé mới mười tám đôi mươi
đã yêu đương lọc lõi, có thể làm thầy dạy cho mình những bài học
đầu tiên về cuộc sống.
- Chắc là tại mọi ngừơi.
- Không. Sài nhăn mặt lại nói như rút từ ruột mình ra những lời
ấy:
- Đã bảo là tất cả tại em. Ngay từ nhỏ đã tại em. Giá ngày ấy em cứ
sống với tình cảm của chính mình, mình có thế nào sống như thế,
không sợ một ai, không chiều theo ý ai,sống hộ ý định của người
khác, cốt để cho đẹp mặt mọi người, chứ không phải cho hạnh phúc
của mình. Nếu em, cứ kiên nhẫn và quyết liệt như thế, chắc bố mẹ,
anh em, đơn vị cũng không đem giết em. Về sau này nếu em có kinh
nghiệm, em có hiểu biết và không hoa mắt choáng ngợp trước sự hấp
dẫn của thành thị, bình tĩnh hơn, tỉnh táo hơn, xem tạng người mình
thì hợp với ai, có lẽ em không phải lao đao, lúc nào cũng cảm thấy
hụt hơi trong suốt mấy năm qua. Nửa đời người phải yêu cái ngừơi
khác yêu, nửa còn lại đi yêu cái mình không có, đến bây giờ mới
biết mình như thế nào thì lại...
- Ông Hà và anh em chúng tôi bắt chú phải làm điều gì không
phải?
- Vâng! Em biết chả ai nỡ bắt em và cũng đến lúc không ai có thể
bắt được chuyện gì nữa. Nhưng đã bốn mươi tủôi đầu không biết mình
là thế nào để tự định đoạt lấy cuộc sống của mình thì em cũng chả
nên sống làm gì.
Cả Hà và Hiểu đều biết không ai thấm thía hơn Sài với cái gọi là
hạnh phúc của anh. Nếu như thế nào chắc Sài phải tự tìm cho mình
một lối thoát chính xác. Nếu không, như anh ta nói bốn mươi tuổi
đầu còn hồ đồ không biết mình là thế nào lại cứ hoảng lên vì cái
này, vì cái khác thì cứ để anh ta tự kết luận lấy đời mình kể cả
việc quyết định ly dị vợ và xin chuyển công tác về địa phương. Cũng
chả nên tham gia làm gì. Nể Tính, hai người ngồi lại ”bàn“. Thấy
anh em căng thẳng không cần thiết và những đìêu Sài nói thực ra va
chạm đến cả chú và ngừơi phụ trách trực tiếp của mình trước
đây.
Nhưng cả hai con người từng trải này đều biết mình phải có những cử
chỉ, những lời nói như thế nào để đạt tới mục đích của buổi hôm
nay. Phải cho hai anh em vui vẻ và cả hai đều cảm thấy có cái lý
của mình không nên vạch vòi chỉ trích nhau làm gì lúc này. Nói để
đạt tới mục đích ấy song cả hai đều đề cập đến việc phải bàn khiến
Sài cảm thấy ân hận với những lời lẽ bất cần của mình với mọi
ngừơi. Đấy là chuyện con cái. Nuôi thằng Thùy là chắc chân. Nhất
định toà sẽ xử như thế. Chỉ có điều là để cháu ở đâu cho tiện việc
trông nom nó. Đừng tạo nên cảnh bố con tha nhau nay chỗ này mai chỗ
khác. Bàn đi tính lại mãi họ quyết định cho cháu về ở với bác Tính
gái. Về đấy có các anh, các chị chơi đùa, cháu cũng đỡ nhớ mẹ. Khi
nào Sài về công tác ở huyện, có thể ahi bố con mang nhau lên cơ
quan. Hai anh em thay nhau nuôi một đứa trẻ làm gì mà không được.
Cái quyết định ấy Sài chưa thật bằng lòng. Việc ăn uống, tắm giặt
tuy ở Hà Nội có khó khăn nhưng có điều kiện để giữ gìn cho con sạch
sẽ. Về quê, không có mình, chị dâu và các cháu không quen các sinh
hoạt của con, nó ốm đau ghẻ lở thì khổ lắm. Phần khác, anh vẫn giữ
một quan niệm: hết sức tránh sự nhờ vả dù là ngừơi ruột thịt. Nhưng
thôi hãy tạm thế. Tránh vác con lang thang nhưng nó ở đâu anh sẽ ở
đấy. Anh không thể rời nó. Cả cuộc đời anh chỉ còn lại có nó. Nó
như niềm an ủi, như một thằng bạn. Mỗi lần nó hắt hơi, sổ mũi anh
cũng giật mình thon thót. Bây giờ lại để con một nơi làm sao chịu
nổi.
Trong khi Sài về quê để lo việc ăn ở cho con và liên hệ công việc
thì Châu đã đến nhà Toàn. Cầm tờ giấy báo của toà án Châu thực sự
choáng váng. Có những chiều đi làm về đón cả hai con, không tắm
rửa, nấu nướng, mua phở cho các con ăn, nước mắt cứ ràn ra phải
quay đi để giấu chúng. Thằng Thùy vẫn biết ”Mắt mẹ làm sao mà chảy
nước thế“- ”Mắt mẹ đau“- ”Để con lấy thuốc con tra cho nhá“- ”ừ ăn
nhanh lên“- Mẹ ơi bố đi đâu?“- ”Bố chết rồi“- ”ý , không phải bố về
quê. Con cũng về quê, đi đò mà có cái bơi ý mẹ biết không?“- ”Mẹ
không biết. Đã bảo ăn quàng lên mẹ còn rửa dọn“. Mấy hôm sau đưa
con xuống mẹ đẻ, mỗi chiều đi làm về cô đạp đi hết đường này đến
phố khác, đến tối mịt mới về. Cô đến nhà Toàn chỉ vì không biết đến
đâu trong khoảng thời gian trông trênh vô cùng. Mỗi bủôi chiều hết
giờ làm việc ra khỏi cơ quan không biết đi đâu thì Toàn đã đến đón
cô. Hàng tháng nay, chiều nào hết gìơ làm việc Toàn cũng đạp xe đi
đến gần chỗ làm của cô. Đợi cô dắt xe ra cửa, lên xe đạp đi, rồi từ
một gốc cây sấu ở mãi xa đằng đầu đường anh mới đạp xe theo. Cứ đi
theo quanh quẩn, đến khi cô về đến lối rẽ vào nhà mình anh mới quay
lại. Mấy chiều nay thấy Châu đạp xe đi lang thang anh quyết định
gặp cô vào chiều ngày thứ sau. Cũng như mọi chiều theo Châu, đến
gần lối rẽ về nhà mình Toàn đạp dấn lên như một sự vô tình anh
hỏi:
- ồ sao hôm nay em về muộn thế.
Châu giật mình quay lại, trả lời thẫn thờ:
- Việc nhiều phải làm thêm.
- Vào anh một chút được không
- Để làm gì.
- Nếu em không bận anh mời em đến chơi, chả có việc gì. Rồi anh
buồn bã hỏi
- Anh đi với em một đoạn có được không?
- Tuỳ, nếu anh rỗi rãi.
Phải đi một đoạn khá xa Toàn mới nói:
- Anh biết tất cả nỗi khổ tâm của em trong thời gian gần đây.
- Anh cũng còn thương xót đến tôi?
Nỗi đau khổ lại dâng tràn đầy khuôn mặt trái xoan của Toàn. Anh
lặng đi khiến Châu cảm thấy ân hận vì mình đã quá lời.
- Anh biết vì anh nên em mới khổ. Nếu em không tha thứ cho anh, chỉ
xin cho anh được làm một việc gì đó nếu em thấy cần san sẻ nỗi vất
vả của mình.
- Bây giờ anh mới biết là anh đã làm tôi khổ à?
- Anh biết vì quá yêu em anh đã không kìm giữ được. Nhưng nếu em
bình tĩnh nghe anh thì đâu đến nỗi.
- Bình tĩnh. Anh cứ bình tĩnh sống với vợ con anh còn tôi bình tĩnh
để trở thành một con đĩ.
- Cho đến bây giờ mọi việc đã rõ ràng cả rồi em vẫn nghi ngờ anh.
Anh cũng đành chịu biết làm thế nào.
- Bây giờ anh được giải phóng rồi thiếu gì con gái trẻ đẹp.
- Em cho anh là loại ngừơi như thế à?
- Đàn ông các anh có thằng nào khác thế.
- Thôi được, em múôn cho anh là loại ngừơi thế nào cũng được. Anh
chỉ nói với em một điều. Từ nay anh hoàn toàn không có gì ràng
buộc. Anh đề nghị: trong cuộc sống của mình, nếu em cần đến anh với
tư cách nào cũng được. Thằng ở, một người bạn, người anh, em cho
phép anh được làm việc gì đó đỡ mẹ con em nếu không muốn nói là
nghĩa vụ của anh. Còn tình cảm của chúng ta em có nghĩ lại hay
không là quyền của em. Anh không dám đòi hỏi gì. Nhưng anh sẵn sàng
đón nhận tất cả.
- Thôi đi, tôi chán tất cả nhưng lời ấy rồi.
Cô đạp xe dấn lên như chạy trốn, như kinh sợ hoảng hốt. Nhưng trước
khi ra toà hai ngày cô đã đến ở trọn với Toàn cả đêm. Đến khi đứng
trước bản tuyên bố cuối cùng của phiên toà cô đã làm một việc mà
chính từ trước tới nay cô luôn hoảng sợ.
Mời anh Giang Minh Sài trả lời tiếp câu hỏi của toà.
Sài đứng dậy chờ nhân viên thẩm phán ghi chép cái gì đó rồi ngẩng
lên trịnh trọng:
- Nếu toà xử ly hôn giữa anh và chị Nguyễn Thùy Châu anh cho biết
nguyện vọng của anh về tài sản và con.
- Về tài sản tôi để chị Châu hoàn toàn sử dụng. Về con cái: Vì cháu
nhỏ chưa thể tách khỏi mẹ, tôi xin nuôi cháu lớn là Giang Minh
Thuỳ.
- Anh ngồi xuống- Giọng anh ta lại với lên - Mời chị Nguyễn Thùy
Châu.
Châu đứng lên nét mặt lạnh lùng. Viên thẩm phán dỗ dỗ đầu bút xuống
mặt giấy như thể gõ nhịp:
- Chị đã nghe rõ ý kiến của anh Sài chưa?
- Tôi nghe rõ rồi ạ.
- Chị có ý kiến gì về tài sản và con cái.
- Về tài sản, tuỳ toà quyết định như thế nào tôi cũng xin chấp
hành. Riêng phần con: Cháu Giang Minh Thuỳ không phải là con của
Sài.
- Chị có chứng cớ.
- Chứng cớ là tính từ ngày chúng tôi đi lại với nhau đến khi sinh
cháu có bảy tháng ba ngày.
- Chị sinh cháu thứ hai cũng không được đủ tháng.
- Vâng, nhưng cháu Thuỳ nặng 3,2 Kg không có biểu hiện gì của sự
thiếu tháng.
- Đã bao giờ chị cho anh Sài biết chuyện này chưa?
- Chưa.
- Chị nói tiếp.
- Vâng. Nguyện vọng của tôi là anh Sài không được phép nuôi cháu
Giang Mình Thuỳ.
- Nhưng chị cũng xác nhận anh ấy là người vất vả chịu khó nuôi
con.
- Thưa toà. Vì không phải là dòng máu của mình, nhất là đến hôm nay
anh Sài mới biết chuyện này, anh sẽ không đủ sức mà thương yêu,
nuôi dưỡng một đứa trẻ không phải là con của mình.
Có những lúc Sài đã chạnh nghĩ đến nó nhưng không bao giờ ngờ tới
những lời của Châu như lúc này. Đầu óc anh choáng váng, mắt vẫn
nhìn lên mà không còn thấy gì, không nghe được Châu nói tiếp những
gì. Trong anh chỉ còn những hình ảnh hàng trăm lần con ”đi“ trong
một ngày đêm, hàng tháng trời ngồi thâu đêm giữ kim và ôm con vợ
ngủ. Những lời thông minh hóm hỉnh đầy tình cảm của nó: ”Thuỳ
thương bố nhất. Nhớn lên Thuỳ sẽ đi bán kem cho bố tha hồ ăn nhì“-
”Sao mắt bố chảy nước? Bố khóc, Thùy buồn lắm“. Con ơi! Thùy ơi!
Nếu các bác ở nhà quê biết rõ chuyện này thì sẽ nghĩ đến con như
thế nào! Anh giật mình khi nhân viên thẩm phán gọi đến tên mình.
Anh đứng dậy như một cái máy:
- Anh đã nghe rõ hết lời của chị Châu chưa?
- Rồi ạ.
- ý kiến của anh như thế nào.
- Tôi không có ý kiến gì.
Chiều hôm đó còn đồng nào trong túi Sài mua hết bánh kẹo cho các
con. Anh bế và hôn lên khắp người mỗi đứa. Anh khoác chiếc ba lô có
cái màn và mấy bộ quần áo nói với các con: ”Bố đi công tác xa“. Rồi
vội vã bước ra khỏi nhà. Với bộ mặt lạnh lẽo cay độc Châu vẫn nhìn
anh như kẻ thù nhưng đến khi anh đi khỏi, hai đứa trẻ khóc oà chạy
theo bố, cô cũng gục đầu xuống gối nức nở. Cho đến khi hai con chạy
vào mỗi đứa một bên mếu máo lay gọi mẹ thì những ngừơi ở khu tập
thể đã đứng đầy phía ngoài. Nhìn qua khe cửa thấy cảnh ba mẹ con
kêu khóc trên một chiếc giường, nước mắt ai cũng muốn rào ra, ai
cũng muốn kêu to lên với những chàng trai, cô gái rằng: Các ngừơi
hãy cứ yêu nhau say đắm và mê mẩm rồi lại cắn xé nhau như chó mèo
đi. Tất cả đều là quyền của các ngừơi. Nhưng đừng có kẻ nào dã man
tạo ra những đứa trẻ để lại trút lên cái cơ thể bé bỏng ngây thơ
của nó những tội lỗi sinh ra từ lòng ích kỷ không cùng của các
người.