Với Sài thế là hết. Chỉ có điều anh day dứt và mong đợi giá có ai
đó, có một lần nào đó lại biết vì sao Hương đối với anh lại tàn tệ
đến thế. Đã thấy yêu anh là dại dột, đã có một tình yêu khác thì
cũng chỉ một lần "lịch sự" với nhau là anh sẽ tự hiểu, anh vẫn phải
tự đi lang thang suốt đêm trong thị xã để chờ chuyến ô tô sáng ngày
mai, nhưng Hương đừng hắt hủi đến mức như cầm bát nước mà hắt vào
mặt anh ở cái đêm ấy. Ôi, tình yêu! Anh biết rằng anh cũng có một
nỗi khát khao đối với những người con gái như tất cả bạn bè. Chỉ có
khác, anh khác họ ở chỗ anh không có quyền, nói cho đúng anh không
được phép có một tình yêu. Hương đã đến với anh như từ trên trời,
Hương đến ban cho anh sự linh thiêng của tình yêu rồi lại Hương, tự
Hương vứt bỏ không thương tiếc. Hương hoàn toàn có cái quyền ấy.
Còn anh cũng đã ý thức được là một thằng con trai không có quyền
ngửa mặt hứng chịu mọi sự nhục nhã để được bố thí một tình yêu. Cứ
thẳng thắn với nhau đi. Đứng cạnh Hương anh có thể có đủ nghị lực
mà nói một cách không run rẩy rằng: "Thôi từ nay chúng mình chấm
dứt, chúc em sống hạnh phúc"
Sài được nghỉ tết 2 tuần. Từ khi được đơn vị cử đi học đại học đây
là lần đầu tiên anh về nhà. Sự có mặt của anh lần này là niềm hãnh
diện của cả họ hàng nội ngoại. Cả vùng ngoại bối chỉ có một người
học Đại học là quý, Sài không phải mang gạo mang tiền đi học, ở bộ
đội gian khổ là thế mà tự học có hơn một năm vào được đại học càng
quý giá hơn. Ai cũng chiều chuộng và kiêng nể. Ngay cả chuyện Sài
không hỏi han gì đến Tuyết mọi người cũng chỉ thở dài "Khổ, cái số
nó biết làm thế nào". Bố và mẹ, anh và chú, họ hàng và làng xóm đều
cảm thấy nó đã tuột khỏi tay mình. Cái quyền làm cha mẹ, trên dưới,
chỉ còn ở chỗ tâm tình và khuyên bảo, nương nhẹ và âu yếm. Tất cả
đang gá mình vào niềm vinh quang của chàng trai trẻ. Duy chỉ có bà
đồ thấy con ngày nào cũng vác xe đap đi suốt ngày đêm, bà mắng con:
"Mày cứ đi đâu cho vất vả? Từ mai ở nhà nghỉ con ạ". Nhưng ngày nào
anh cũng phải đi. Đi vào huyện để anh Tính dắt đi giới thiệu với
các ban ngành, đoàn thể, đi chợ và đi thăm bạn bè. Tất cả những
công việc ấy thực ra không hề có ý nghĩa gì nếu không có hai lần đi
và về qua xóm nhà Hương. Không đi không chịu được. Nhưng có hai lần
thấp thoáng thấy bóng Hương từ phía cổng nhà cô anh đều đạp dấn lên
như chạy trốn để rồi khi trở về cứ đi quanh quẩn nhìn vào phía ngôi
nhà có tường hoa xây quanh. Không chỉ là sự ngượng ngùng, còn nỗi
ấm ức ghét bỏ khiến anh không thể gặp Hương, không thể nói gì kể cả
cái điều đêm nào anh cũng nghĩ tới: Vì sao cô ta đối với mình lại
tàn tệ thế!
Hương về nghỉ trước Sài hai ngày. Ngay hôm đầu me đã hỏi: "Lâu nay
cậu gì ngoài bãi có đến chỗ con không?" - "Sao mẹ lại hỏi con thế"
- "Vì mẹ sợ chẳng đâu vào đâu mà mang tiếng". Hương càng thấy nhói
đau và oán giận cái con người ấy. Thấy Hương ngồi lặng đâu đớn mẹ
an ủi:"Thằng bé nó cũng tội. Gia đình nhà cô kia xui con làm đơn đề
nghị đơn vị gọi cậu ấy về không cho học đại học vì tội chê vợ" -
"Đấy là chuyện trước, mẹ thì cứ chắp chuyện nó với chuyện kia" -
"Trước đâu, đến bây giờ các bà ngoài bãi mới bảo không ai bắt được
nó phải đi lại với vợ. Khi đi thăm cậu ta về cô vợ sợ xấu cứ cười
cười. Có người hỏi "thế nào" cô ta lại khóc với bà cô ruột vào làm
cho nhà ta rằng anh ấy tệ lắm. Cả ba đêm anh ấy ngồi đọc sách, hỏi
câu nào anh ấy mắng câu ấy. Khi đơn vị cho hai người cùng về quê,
anh ta mua vé mỗi người ngồi một nơi đến nửa đường thì xuống bảo
còn đi có việc! Rồi bà kể cho con gái biết chuyện vì sao cô Tuyết
biết địa chỉ của cậu ấy. Cậu ấy đã nói thẳng với ông thủ trưởng
tướng tá gì đấy là tôi không thể yêu cô ấy được, các đồng chí không
cho tôi đi học thì thôi. Nhưng vì cậu ta giỏi quá không thể thay ai
được, đơn vị đành cứ phải mời cậu ta đi. Không ngờ cái đoạn các bà
làm thuê( họ vẫn còn làm thuê lẻ tẻ với tính chất "cái phân cái
gio" giúp gia đình "người bà con") người làng bãi bịa ra Hương lại
có thể tin. Cô bảo mẹ: "con bận học hành cũng chả hơi đâu mà nghĩ
đến chuyện rắc rối ấy nữa. Mệt người lắm" - "ừ thôi, thiếu gì
người, con lại phải đi đâm đầu vào chỗ ấy". Không hiểu sao sáu bẩy
năm nay từ khi mới mười lăm tuổi không biết đã có bao nhiêu người
đủ các loại "xô" vào Hương đều bị bật ra mà cô lại lao đầu vào Sài
như một con thiêu thân. Ngay cả những ngày "căm thù" anh ta nhất cô
cũng không thể nghĩ đến ai. Cô có thể lý giải được một phần lý do
ấy vì cô còn trẻ và biết rõ cái thế của mình muốn yêu ai, lấy ai
lúc nào mà chả được. Đã vội một lần gỡ mãi không ra, tội gì vội
vàng nữa. Nhưng cô không lý giải được tại sao cô lại yêu Sài. Một
cuộc tình không biết sẽ đi đến đâu vẫn không thể dứt bỏ. Người ta
bảo mấy đêm nay, Sài toàn rủ bọn trẻ con vào chợ Bái. Cứ đi rong
chơi chả thấy vào nhà ai. Đến quá nửa đêm mới kéo nhau về rúc vào ổ
của bất cứ nhà đứa nào đó, năm bảy anh em nằm quay ngang, quay dọc
chồng chéo lên nhau. Không hiểu sao bọn trẻ đứa nào cũng thích đi
với anh Sài chơi xa thế. Mà có để làm gì đâu. Chắc buồn quá nên dẫn
bọn trẻ con tha thẩn cho vui. Hương lắng nghe tất cả và hiểu cả. Cô
cũng hiểu sự tác động những câu đối đáp của cô hồi đầu năm học đến
đâu. Ngày nào cũng đi qua đây (và cả đêm nữa) mà anh không dám gặp
Hương cũng phải thôi. Nếu ngày ây Hương biết rõ mọi chuyện như bây
giờ thì đâu đến nỗi. Liệu mình có nên chủ động gặp không? Cô gạt bỏ
ngay ý nghĩ này. Đã một lần chủ động rồi! Con gái như thế họ sẽ
khinh thường mình. Không chủ động nhưng cô cũng đã "vô tình" đứng ở
cổng mấy lần rồi. Cả mấy lần có lẽ anh vẫn qua đây nhưng có hẹn ai
mà gặp. Cả hai tuần lễ, kể cả đêm 30 và ngày mùng một tết một người
vẫn "vô tình" đi qua và người kia cũng "vô tình" mong đợi. Họ vẫn
không gặp nhau. Suy cho cùng cũng cái nguyên do rất đơn giản và ngu
ngốc: ai cũng muốn giành phần thắng về mình. Cả một thời ý thức về
cái danh dự hão huyền đã trói buộc họ bỏ qua nhiều dịp khác nữa.
Những giây phút có thể "hàn gắn" ấy để trôi đi ngờ đâu nó thành xa
cách mãi mãi. Hai năm rưỡi nữa Hương đang học năm thứ hai của
trướng Bách khoa cô tìm mọ cách đăng ký đi trại hè ở bờ biển nơi
anh đóng quân. Cô biết rõ ràng như thế và không cần phải dè dặt. Cô
cũng biết rõ ràng không có người con gái nào trong anh ngoài cô. Vì
cô, anh đã sống những ngày tháng như đã "chết rồi".
Vừa đến nơi, bạn bè còn đang ngơ ngác trước ồn ào của sóng gió cô
đã dò hỏi địa chỉ của anh và nhắn anh xin phép ra bãi biển trung
tâm gặp cô. Chiều tối, một trung uý tìm đến. Anh tự giới thiệu với
cô tên mình là Hiểu, trợ lý văn hoá của trung đoàn, người phụ trách
trực tiếp của Sài. Anh có khuôn mặt đôn hậu, giọng nói rất thật và
sự quan tâm cảu anh đối với Hương cũng rất thật. Giọng anh ngập
ngừng ái ngại. Không may cho Hương lắm, đồng chí Sài lại vừa đi
công tác sáng nay. Có lâu không anh? Hương ở đây thời gian bao lâu.
Năm ngày với một ngày đi, ngày về. Nét mặt anh buồn buồn như có vẻ
nhẩm tính. Có thể là không gặp được. Sài đi cũng phải hơn một tuần.
Chỗ anh ấy công tác có xa lắm không ạ. Cũng hơi xa. Anh có thể làm
ơn chỉ giúp em đến đấy! Hương đang còn phải tham gia các hoạt động
của trại. Em sẽ xin phép đoàn trưởng. Gia đình anh Sài có việc rất
cần em phải nói với anh ấy. Anh Hiểu nhìn lướt trên khuôn mặt sắp
sửa bật lên lời cảm ơn tấm lòng nhiệt tình của anh. Anh lại ngẫm
nghĩ như nhẩm tính, khuôn mặt anh cũng không giấu được nỗi băn
khoăn cảm thông với cô. Hương ạ, chỗ quân sự không thể vào được
đâu. Nếu Hương cho phép, tôi được coi như người anh của Hương, có
dịp nào tôi sẽ nói chuyện với Hương nhiều. Còn bây giờ Hương thông
cảm, tôi không thể chỉ cho Hương đến đấy được. Bỗng nhiên Hương
thấy mình có lỗi, vì quá hăng hái gặp Sài, cô đã làm người thủ
trưởng trực tiếp của anh phải lâm vào tình thế khó xử. Không sao
đâu anh ạ, nếu khi nao anh Sài về anh nói giùm có cô em gái tên là
Hương cần gặp anh ấy, nhưng thôi, để dịp khác cũng được. Vâng, tôi
sẽ nói nhưng Hương phải hoàn toàn thông cảm cho tôi. Không, em hoàn
toàn thoải mái thôi mà. Nói vậy mà cả năm ngày đi tắm biển cô chỉ
múc nước giếng, và nhận chân "coi nhà" nằm đọc sách. Cô tự trách
mình tại sao không chủ động viết mấy chữ báo tin mình sắp đến đây.
Tự nhiên lù lù dẫn xác đến ai người ta biết đâu mà đón đợi. Ngày
trở về Hương leo lên xe trước tiên. Một anh bộ đội đến gửi cô bạn
ngồi sau Hương lá thư cho gia đình ở Hà Nội. Nghe nói anh ở trung
đoàn bộ, Hương quay đầu lại vươn qua thành xe hỏi anh có thấy anh
Sài về chưa. Sài ở nhà chứ đi đâu mà về, Sài văn hoá cơ mà. Thì
"Sài Hương" mới tốt nghiệp sư phạm năm sáu tháng nay chứ gì. Cô bạn
phía sau nháy mắt cho Hương. Sao lại gọi là Sài Hương hở anh. Không
biết cô Hương cô khói nào đấy "úm" từ bao giờ đêm nằm mê hét
"Hương, Hương chạy đi đâu em" cứ toáng lên nên anh em mới đặt là
Sài Hương. Bộ đội các anh cũng thơ mộng thế cơ à. Ôi nghe nói ngày
xưa cậu ta tưởng tượng ra cái cảnh hai người cùng học toàn là nhất
nhì với nhau, yêu nhau rồi dắt nhau đi ăn kem quanh Hồ Gươm. Dắt
nhau lên mây lên gió gì nữa. Thấy lãng mạn, viển vông quá nên anh
em đại đội nó mới "cạo"cho một trận nên thân phải đi cấp cứu ở bệnh
viện. Nhưng mà cậu ta quả là có nghị lực. Vẫn tự học, chỉ có năm
rưỡi học ba lớp thi đỗ đại học toàn năm cộng, xuất sắc nhất trường.
Công nhận nó ít tuổi mà có chí. Vẫn cô gái phía sau... Thế bây giờ
anh ấy còn mê cô Hương nữa không? Trong ruột cậu ấy có giời biết.
Cậu này kín lắm. Với lại chả ai để ý vì căn bản ai cũng quý mến cậu
ta. Dạy đã giỏi, giải nhất quân khu, tháng trước được đi trại hè
toàn quân ở đây để báo cáo kinh nghiệm dạy học đấy. Hết dạy lại đi
tăng gia, phân gio tưới tắm. Đêm đến lại cặm cụi học, thành ra
không ai nghĩ cậu ta là người không đứng đắn. Từ nãy Hương vừa muốn
nghe vừa muốn rầu rĩ muốn kêu lên. Anh bộ đội cứ nói. Anh nói như
muốn chứng tỏ cho các cô biết sự thành thạo của anh, một người
chuyên môn chữa vô tuyến điện mà cũng thông thạo mọi chuyện, kể
chuyện gì cũng hấp dẫn. Sao bảo anh Sài đi công tác ạ. Chả nhẽ tôi
lại bay ngay về cõng câu ta ra đây để chứng minh cho cô. Cả tháng
nay ngày nào cậu ta không ăn cùng mâm với tôi. Sáng nay hai thằng
cùng nhá ngô bung với nhau chả nhẽ tôi còn nhầm. Nhưng có phải Sài
đúng như tôi vừa kể không đã. Hương khẽ gật đầu. Cô là thế nào với
cậu ta? Là em. Anh ta nhìn Hương gật gù: Kiểu này dễ là em con ông
bác lắm. Sao đến đây hàng tuần không tìm ngay. Không biết là ở đây
à. Hay để tôi chạy về bảo cậu ta mượn xe đạp chạy ra đây vậy. Như
xe đã nổ máy rồi. Cảm ơn lòng tốt của anh. Xe chạy, Hương phải quay
mặt vào gục xuống thành ghế phía trước, cố ghìm lại để khỏi oà khóc
lên thành tiếng. Trời ơi, sao lại oái oắm đến mức này. Cả một tuần
nay em chờ mong khao khát ước có phép tiên nào đấy để được gặp anh
mà chỉ cách một cây rưỡi cây số anh không đến để gặp em. Cái anh
Hiểu kia là ai mà độc ác vô cùng. Không, con người ấy từ cái nhìn,
tiếng cười, giọng nói, cử chỉ, không thể là người âm mưu lừa dối
được. Nhưng mà để làm gì! Anh ấy ra dự liên hoan bế mạc trại, đến
ngồi nói chuyện với Hương như một người anh trai thực sự. Hương
cũng đã hỏi một chú bộ đội được biết đó là trợ lý văn hoá của trung
đoàn tức là người phụ trách việc giảng dạy của Sài. Giữa anh Hiểu
và anh bộ đội lém lỉnh kịa ai đúng? Hương không ưa cái vẻ ba hoa
bốc đồng của anh ta nhưng tất cả những điều kể về Sài thì không thể
là bịa đặt. Anh ta cũng định chạy về gọi Sài thật sự kia mà. Vả lại
biết chắc chắn bọn cô sẽ đưa thư đến nhà với địa chỉ ấy các cô có
thể trách cứ, làm sao anh ta dám nói dối. Mà để làm gì kia chứ! Thế
thì tại sao! Tại sao Hương lại chịu nỗi hẩm hiu đến mức
này!!!
Từ rất sớm Hiểu và tổ giáo viên, tổ câu lạc bộ đi rỡ khoai sọ về
cân theo yêu cầu của nhà bếp. Đây là ruộng khoai duy nhất của trung
đoàn. Nó là chất "bột cao cấp", lại có thể thay rau với tỷ lệ một
"ăn" bốn. Với tờ chứng từ viết vào mặt trái bao "Tam đảo" anh nuôi
trưởng nhận đã thu của ban chính trị sáu tạ khoai sọ làm cho cả ban
vừa mừng rỡ sung sướng vừa kiêu hãnh. Bạn có mười bốn người thì anh
giáo viên "dài lưng tốn vải". Một anh thư viện kiêm sử dụng âm ly,
loa đài, dây dợ, băng cờ khẩu hiệu, thủ kho của câu lạc bộ. Một anh
chụp ảnh kiêm sáng tác kịch, chèo độc tấu, thơ ca cho đội văn nghệ
nghiệp dư. Khi họ tập trung anh kiêm luôn cả nhạc trưởng, đạo diễn,
kéo đàn accócđiông, đệm ghi ta và đánh trống. Nghĩ là "đa di năng".
Cả năm vị "anh hào của hai bộ phận do trung uý Hiểu trợ lý văn hoá
kiêm luôn trợ lý câu lạc bộ chỉ huy. Họ là những người trai trẻ
nhưng lười biếng, thường "mất hút" mỗi khi tăng gia rau và "chất
bột" mà cái "rấp" của nó lại là tại quân ông Hiểu".
Thực hiện nghị quyết của trung đoàn uỷ mỗi cán bộ cơ quan phải đạt
chỉ tiêu mười cân bột, hai mươi cân rau, hai cân thịt (bộ phận anh
nuôi và ban Năm chịu trách nhiệm) trong năm nay thì không ai dại gì
mà mấy "thằng già" lại đi cõng cả "cha con ông Hiểu". Cái lý do ban
chính trị tách thành hai bộ phận tăng gia cho "gọn" thực chất là
thế. Đến hôm nay anh nuôi bảo khoai bộ phận anh Hiểu, Hiểu nói
luôn: "Của cả ban chính trị". Thế là mới sáu tháng, ban chính trị
đã đạt tiêu chuẩn bột xuýt soát bốn ba cân đầu người. Họ cứ nằm
khểnh mà chơi cuối năm chỉ cần "bắn" dăm bảy chục cân khoai "sang
rau" là xong. Nhưng đời nào ban chính trị chịu thế. Rau của "ông
Hiểu" đã được tạ mốt, cánh già cũng đã được mười bảy cân. Nếu đám
rau của "cánh già làm cỏ đi, nước giải tưới đều cuối năm thì phải
hàng tạ chứ ít của. ấy là chưa kể quân ông Hiểu đã lấy phân ủ để
sang thu trồng cải, trông xu hào. "Tốt, tốt quân ông Hiểu năm nay
tốt đấy". Nghe chủ nhiệm chính trị gật gù khen Hiểu cứ nghĩ trong
bụng cười thầm. Ai lại ở một cơ quan chính trị mà hcỉ xem anh nào
tốt hay xấu, cuối năm có được biểu dương khen thưởng hay không là ở
chỗ có tích cực tăng gia hay không. Có khi sự tích cực ấy không đem
lại kết quả gì vẫn còn hơn anh thức suốt đêm cả hàng tháng để viết
một vở chèo. Cũng có lúc chẳng cần biết anh có tăng gia hoặc tăng
gia được cái gì chỉ cần thấy anh tỉ mẩn buộc từng bó đóm tre ngâm
mang theo khi diễn tập, cái bật lửa dùi nắp luồn dây dù qua rồi gài
kim băng vào túi quần không bao giờ ai hỏi xin tăm mà anh lại không
có sẵn cái ống đựng Appêrin bằng nhôm trắng đầy tăm, chiếc nào cũng
tròn nhẵn đều tăm tắp. Người như thế nhất định có thể kết luận là
chịu khó tăng gia, tăng gia nhất định giỏi. Không những Hiểu mà cả
anh em ở hai bộ phận đều thấy việc tăng gia không phải khó đến mức
họ không thể làm được. Đầu năm họ đã bàn nhau: cần thì giảm giờ làm
việc chuyên môn để tăng gia. Không đạt chỉ tiêu tăng gia bị phê
bình không thể chối cãi được, còn không đạt được hiệu quả cao trong
chuyên môn chẳng mấy ai để ý. Mà thiếu gì lý do. Thôi, năm nay là
năm tăng gia anh Hiểu ạ. Hiểu gạt đi. Nhất thiết phải làm chuyên
môn giỏi. Còn tăng gia cũng phải nghĩ cách mà đạt chỉ tiêu. Trong
cuộc bàn luận "quyết chí" ấy Sài trông có tướng nông dân hơn cả
được bầu là tổ trưởng tăng gia của tổ câu lạc bộ và giáo viên. "Bầu
chú Sài thì yên tâm rồi. Cần gì chú cứ hét một tiếng các anh theo
răm rắp ngay.
Anh nào lơ mơ là ăn đòn đấy. Chú cứ mạnh dạn chỉ huy cho nghiêm
vào". Hiểu giao việc này cho Sài với ý định khác. Sài mới được
phong hạ sĩ và cũng là người mới nhất trong số anh em ở đây nhưng
lại là diện "cảm tình". Chi bộ học viên quân đội ở trường đại học
giới thiệu về. Chi bộ ban chính trị đánh giá Sài là quần chúng
thành phần cơ bản tốt, có ý thức rèn luyện phấn đấu, nhất là trong
học tập. Giao cho Sài việc này tức là tạo điều kiện cho Sài "thử
thách" ở một lĩnh vực khác. Không ngờ Sài làm cho cả trung đoàn bộ
ngạc nhiên và ban chính trị thì tự hào mình đã giáo dục được quần
chúng có ý thức tự giác lao động cao đến thế. Với Sài, anh thấy
không hề phải "cố" chút nào trong việc này. Đêm đêm anh thức từ ba
giờ sáng lấy phân đem ngâm thì có vất vả gì hơn vác vồ chạy vào chợ
Bái. Một mình anh làm cỏ, bỏ phân và tưới tắm cho khoai, cho rau
cũng là cái sự "lủi thủi" nó quen rồi có gì phải phấn đấu. Hơn nữa
ngoài việc học, đọc sách, dạy hoc ra Sài rất sợ những lúc nằm không
ngủ được. Anh cũng tự đặt ra kỷ luật cho mình, không có việc gì
thật cần thiết, không ra phố, không ra bãi tắm, thì giờ ấy không
tăng gia còn biết làm gì nữa. Ngay cả đến Kim, cô "em gái" bao
nhiêu lần trách, không thấy "tăm hơi" anh, anh cũng cố tránh để
khỏi mang tiếng quan hệ phức tạp. Anh tránh né tất cả bởi vì không
có ai để anh có thể san sẻ nỗi buồn về cú "đá" của Hương. Phần anh
thấy nó đau như đã bị Hương "đá" thật, phần khác lại rất muốn nó
không phải như thế. Có lẽ Hương chỉ hiểu lầm chuyện gì đó thôi. Nếu
vậy, anh có thể yên tâm vì trước sau thế nào Hương cũng hiểu anh.
Đấy là ý nghĩ thầm thì, cái nỗi đau dai dẳng từ mấy năm nay khiến
khi trở lại trung đoàn công tác anh phải tự đặt cho mình cái kỷ
luật "quên" để làm việc. Chỉ có công việc mới cho anh những niềm
vui nhỏ nhoi. Không có nó anh lại trở thành bệnh nhân tâm thần của
trạm xá, như người ta từng đồn đại về anh bốn năm trước. Những ngày
năm nay thực sự anh rất vui trong kết quả một sào bắc bộ thu hoạch
sáu tạ khoai sọ là năng suất chưa từng thấy. Các cán bộ của trung
đoàn bộ gặp anh, ai cũng thân tình khác hẳn mấy tháng trước, khi
biết anh đạt kết quả học tập cao và dạy cũng muốn rủ rê và sai bảo,
muốn tâm tình và chỉ dẫn. Qua tình cảm của mọi người anh hiểu việc
vào Đảng của mình, chỉ còn là ngày một ngày hai, gần như cả trăm
phần trăm số đảng viên trong chi bộ đều sẵn sàng thông qua.
Chính uỷ Đỗ Mạnh gọi anh lên chơi, cho bao thuốc và bảo: "Có việc
làm chỉ giới hạn cho một dự luận, của một dư luận nhưng trước mắt
thế là tốt, cố gắng mà phấn đấu"
Ngày thứ sáu kể từ hôm Hương rời khỏi vùng biển này, anh thợ chữa
máy của tiểu ban thông tin đi "đại tu" những máy móc ở Quân khu về
mới nói cho Sài biết chuyện cô sinh viên Bách khoa đau khổ không
gặp được người yêu ("Tớ xem thái độ tớ biết"). Chỉ vì có ai đó lại
nói cậu đi công tác. Anh ta đã thề sống, thề chết là không hề
bịa.
Cũng may cậu ta không hỏi tên. Ăn cơm chiều xong, Hiểu rủ Sài đi
"lang thang". Chính anh là người đã nói với Hương như thế. Anh kể
lại tỉ mỉ và chính xác những gì nghe, cả thấy và phán đoán tình cảm
của Hương từ hôm đầu tiên đến đây. Càng nghe Sài càng đứng chết
lặng. Có lúc Hiểu tự hỏi tại sao mình lại nỡ làm một việc độc ác,
nhẫn tâm đến thế. Có hai lần đang đêm không ngủ được anh ngồi dậy
định gọi Sài nói chuyện đó. Nghĩ đi nghĩ lại thấy trách nhiệm của
mình lúc này khôgn thể nào làm khác được. Trước đây người ta đã
láng máng chuyện của hai cô cậu nhưng do sự học tập đột xuất của nó
át đi. Phần khác, người ta bảo là tâm thần, học nhiều nó "loạn" cứ
tưởng tượng ra mọi chuyện nên không ai nhắc gì quan hệ nam nữ bất
chính của cậu. Cố đừng để nó vỡ ra phiền lắm. Sài biết tất cả cái
gì Sài có được như hôm nay là do anh, Sài gặp được anh như là cái
số của người ta có đường may mắn. Với anh, Sài không phải nói gì,
có khi không cần nói gì, anh cũng làm thoả mãn sự mong muốn của
Sài. Sài cũng biết trong tất cả mọi việc Sài phải tự hiểu, tự làm
đừng để anh phải nói nhiều, băn khoăn nhiều về mình. Tất cả sự xấu,
tốt của Sài có thể coi như sự xấu tốt của anh. Anh lấy Sài về, anh
phản đối tất cả những ai đánh giá Sài không đúng. Anh tìm mọi cách
xin cho Sài đi học và và trước đấy cùng tổ giáo viên luyện thi cho
Sài. Hai năm học ở trường sư phạm mỗi lần qua Hà Nội anh đều đến
thăm và "tiếp tế" quà của ban chính trị. Nếu chỉ đến ngày hôm nay
rồi mãi mãi xa anh thì suốt cuộc đời Sài cũng không thể quên, không
thể có phút nghi ngờ tấm lòng của nh dành cho Sài và mọi người. Anh
đang là chi uỷ viên trực tiếp theo dõi giúp đỡ Sài vào Đảng. Không
thể trách việc anh đã làm. Với anh bây giờ Sài biết không cần e
ngại giấu diếm bất cứ điều gì kể cả nếu anh muốn nghe kể lại cái
lần đầu tiên hai đứa thổ lộ tình yêu với nhau Sài cũng sẵn sàng
làm. Hai người đi bên nhau im lặng khá lâu: "Nếu viết thư cho Hương
có được phép không anh" - "Về vấn đề gì?" Ôi, sao mà biết sẽ có vấn
đề gì trong những lá thư gửi cho người yêu". Hiểu biết mình hơi thô
bạo, dù cái thô bạo chân thành anh vẫn thấy ngượng. "Theo mình hãy
im lặng đã Sài ạ" - "Đến bao giờ hở anh" - "Mình cũng chả biết thế
nào. Nhưng mình hỏi thật. Sài có thật sự tha thiết vào Đảng không
đã?" - "Sao bây giờ anh vẫn còn phải nghi ngờ em chuyện đó" - "Vì
mình sợ cứ bắt Sài cố làm một việc mà Sài thấy khó quá. Sài đã nói
thì mình đề nghị thế này. Từ nay Sài phải kiên quyết cắt đứt quan
hệ với Hương" - "Sao lại..." "Rồi sau này Sài sẽ hiểu dần. Theo
mình chuyện này nó khá rắc rối đấy!".
Từ đêm ấy Sài lại nằm nghĩ ra bao nhiêu chuyện thật và giả, những
khả năng có thể xảy ra và ước ao có một ông giời nào đấy xuống đây
cho hai người ly hôn, cô Tuyết được quyền sử dụng hết ruộng đất,
vườn tược của anh, và đi lấy một người chồng không đẹp trai lắm
nhưng rất khỏe mạnh giầu có, hai vợ chồng đẻ đến chục đứa con đứa
nào cũng béo trắng, đi đâu cũng cả đàn cả lũ ríu rít cười đùa mãn
nguyện. Còn Sài và Hương cùng xin đi Nam đánh giặc, Hương đi bên
dân chính làm phóng viên cho một tờ báo nào đấy. Gặp Sài là dũng sĩ
diệt Mỹ, họ giả vờ chưa hề quen nhau. Đên khi phỏng vấn xong, Hương
mới oà khóc ôm chầm lấy anh mà bảo anh có biết em phải đi bộ nát cả
hai bàn chân sốt rét rụng hết cả tóc và đói, và bom đạn, và muỗi
vắt suốt một năm nay chịu đựng cực nhục mới đến được chỗ anh... Chỉ
có điều khác khi còn ở đại đội 12 là Sài không dám ghi nhật ký, một
chữ không ghi, dù biết rằng không ai xâm phạm đến. Không ghi, nhưng
không đêm nào không nghĩ. Nghĩ những chuyện đó nó đỡ khổ hơn.
Hiểu nằm cạnh giường Sài, anh biết nỗi trằn trọc của Sài suốt mấy
đêm liền. Bằng sự thăng trầm từng trải của một người lính anh biết
rồi cũng qua đi thôi. Điều quan trọng là Sài đang được mọi người
yêu mến, Sài đã có một cái nghề dạy học, mà khối bạn bè cùng tuổi
thèm thuồng... Không dễ gì Sài vứt bỏ những cái đó nhất là với cái
tính nhút nhát của Sài thì sẽ không có điều gì xảy ra. Cuối năm Sài
được bầu là chiến sĩ thi đua duy nhất của trung đoàn bộ. Chi bộ họp
nhất trí kết nạp Sài nếu hai điều kiện chưa được sáng tỏ: Đã yêu vợ
thực sự chưa và kiểm tra lại vài điểm ở gia đình nhà vợ. Phó chủ
nhiệm chính trị gặp riêng Sài ở phòng mình: "Cậu uống nước đi. Tình
hình vợ con thế nào?" - "Báo cáo vẫn như cũ ạ" - "Nghĩa là thế
nào?" - "Báo cáo thủ trưởng tôi không chê cô ấy. Nhưng vẫn khó nói
chuyện với nhau" - "Thế thì không được rồi. Cậu nhớ mình là cơ quan
chính trị mà vô chính trị là không được đâu. Bây giờ thế này, vừa
rồi chi bộ họp đã thông qua lý lịch và đơn xin vào Đảng của cậu.
Vẫn chỉ vướng mắc ở chỗ vợ con đấy. Nói thật, mình quý cậu, anh em
ai cũng quý cậu. Đừng phụ lòng người ta. Bây giờ với tư cách thủ
trưởng trực tiếp mình yêu cầu cậu phải yêu vợ cậu, có được không
nào!" - "Dạ... được ạ" - "Có thế chứ lỵ. Nhưng mà phải thực sự đấy
nhé" - "Vâng, tôi sẽ cố làm theo ý các thủ trưởng" - "Chả nhẽ chúng
tớ lại xui dại cậu làm kiên quyết thì cậu được vợ được con chúng tớ
được cái gì. Tớ cũng nói để cậu biết cho đến cậu là bảy anh, bảy
anh ở ban chính trị từ trước tới giờ ngủng ngoẳng chuyện vợ con tớ
đều dàn xếp xong hết. Bây giờ đâu vào đấy cả. Cậu còn trẻ rất nhiều
triển vọng, để chuyện này lôi thôi thôi ra là mất sạch chứ chơi.
Thôi mình chỉ muốn nói với cậu điều đó. Xác định được thế là tốt
rồi. Cậu nói nhiều triển vọng, chúng mình tin lắm, rất tin!
Có thể nói hàng chục năm nay chưa bao giờ làng Hạ Vị có được cái
hạnh phúc vững chắc như ngày này, cũng lại năm hết tết đến nhưng
nhà nào cũng còn vài chum ngô, dăm ba chục ký gạo nhà nước bán ”bổ
sung“ cho vùng bãi, vài thúng thóc lốc, ổ gà đẻ, một vài con lợn...
Thế đã là vô cùng yên ổn và mãn nguyện. Người ta sống rảnh rang
sung sướng mỗi buổi sáng còn mù mịt sương muối nhà nào cũng đổ oà
ra đầu bếp, góc sân nồi dong diềng luộc lẫn với khoai lang. Khi
những rổ, những sàng khoai và củ dong còn bốc khói nghi ngút lũ trẻ
đã xô đến lật vạt áo lên vừa thổi phù phù vừa nhót lấy những củ to,
đặt vào vạt áo, hai tay túm giữ đầu vạt khom khom chạy như thể sợ
cái nóng làm vạt áo tuột khỏi tay rơi xuống. Mỗi đứa chạy đi một xó
xỉnh ngóc ngách nào đấy giấu làm của riêng để dành đến buổi trưa.
Chúng hí hửng với những thắng lợi ấy, đi học, đi chăn trâu hoặc
chơi đùa lêu lổng đâu đó cho đến khoảng xế chiều. Lúc ấy bố mẹ mới
đào mương, đắp đường, vạc bờ, cuốc góc, làm cỏ trở về tất bật với
bữa cơm trưa. Ai cũng vội vàng, hối hả, chạy lên chạy xuống, hò hét
con cái, tưởng là phải mổ trâu, mổ bò, hoá ra bữa cơm nhà nào cũng
chỉ có nồi bánh đúc bằng bột ngô xay (bây giờ phải làm theo quy củ
giờ giấc của hợp tác rồi không ai còn thì giờ để giã ngô ngâm) với
khoai lang cạo vỏ, xắt từng khúc như miếng dồi, khi chín đánh tơi
lẫn với bột. Một bát rau muống hoặc rau cải xào hoặc luộc chấm
tương. Chỉ có thế nhưng nhà nào cũng sôi nổi đầy khí thế. Nồi bánh
đúc bắc ra lấy đũa cả ”múc“ vào đĩa, vào bát đầy rào lên miệng chảy
cả xuống mâm. Những đôi đũa con quành một vòng tròn trên miệng bát
thuần thục nhanh nhẹn như nhà hoạ sĩ, nhà toán học vẽ các vòng
tròn. Mỗi cái bát ”quành“ xong, họ chọc đầu đũa dính bột vào bát
tương rồi xuýt xoa vì cái cục bột khi đặt vào mồm vẫn nóng bỏng,
tuột phồng cả lưỡi, nước mắt nước mũi trào ra xụt xịt, tạo cho bữa
ăn nào cũng vất vả mà đầy sức hấp dẫn. Hối hả ăn xong bữa chính,
bữa duy nhất trong ngày ấy, người lao động chính và phụ trong gia
đình lại tất tưởi ra đi. Ai làm đất ” phần trăm“ thì tự ý mà ra
ruộng ngay. Ai theo công điểm với đội, ra ngồi ở bờ tre đầu nhà ông
đồ Khang tập trung. Cũng như mọi ngày, mọi buổi, phải tiếng rưỡi,
hai tiếng đồng hồ những người đến trước thả sức tán chuyện trên
giời và dưới đất, chuyện thanh cao và trần tục đến lúc van vãn mới
tập trung đầy đủ theo người trong ban chỉ huy đội đi làm công việc
gì đó. Cả khi đi và về và lúc làm, công việc gì được nhiều hay ít,
còn phải làm nữa hay không, đã có ”ông đội“. Không biết. Chỉ biết
cười đùa và tán tỉnh, cánh đồng làng Hạ Vị quanh năm ròn rã tiếng
cười và tiếng nói. Đấy là cái âm thanh bất diệt của đồng quê, là
nét đổi mới kể từ khi Hạ Vị xây dựng được bốn hợp tác ở cả bốn
thôn. Rất hãn hữu mới có người đi ”giúp bà con“ phía trong đê.
Người ta phải theo công điểm, phải chăm lo thửa ruộng ”phần trăm“,
phải làm phân, chăn bò, chăn trâu cho hợp tác lấy thêm điểm dù rằng
một năm một công chỉ có ba xu trong khi một cân gạo là năm hào.
Nhưng người làng bãi có ”lưng“ ăn khi tháng ba ngày tám, có khoai,
có dong riềng, có sắn ăn kham, ăn khổ mà vẫn vững tâm đàng hoàng,
phởn phơ.
Giữa cái khí thế năm nào cũng ”đi lên“ của toàn xã (thực ra cũng có
năm thất bát huyện phải ”dựng nó“ nhưng trong báo cáo của xã không
năm nào chịu ” đi xuống“). Gia đình ông đồ Khang có sự sum vầy đầm
ấm chưa từng thấy. Sự rộn ràng hệ trọng bắt đầu từ khi anh công vụ
của huyện uỷ, người Hạ Vị, sang văn phòng uỷ ban báo cho Tính biết
có một thiếu uý trợ lý bảo vệ, chi uỷ viên, của đơn vị, đang ở bên
huyện uỷ xin giới thiệu xuống xã thẩm tra kết nạp Sài vào Đảng, Sài
cũng về. Mấy ông giáo đang kéo cậu ta vào trường cấp ba. Tính gọi
điện thoại cho cô cháu bán hàng bên bách hoá sang ngay để anh dặn
dò nó đạp xe về báo cho gia đình chuẩn bị. Đặt máy xuống anh lấy
giấy bút viết thư cho cửa hàng ăn soạn cơm trưa cho sáu người ăn,
cửa hàng bách hoá xin một tút Điện biên bao bạc, năm gói Ba đình.
Xong xuôi, anh gọi liên lạc cầm thư đi và mươi phút sau cho anh
biết kết quả. Với cương vị uỷ viên trực, giải quyết nội chính, mọi
yêu cầu của anh các cơ quan đều vui vẻ làm và làm đến mức anh phải
ngạc nhiên. Chẳng hạn, cửa hàng ăn làm sáu xuất cơm, mỗi xuất một
đồng rưỡi mà đặt lên bàn tới mười lăm chai bia.
Cá ”bỏ lò“, vịt tần, gà luộc, giò chả, nem rán, chả thịt nạc, xào
bóng xúp lơ. Món gì cũng dang dở thừa thãi. ăn xong tráng miệng
cam, chuối, cà phê phin... Cái chuyện nhà quê từ đầu đến chân, từ
chủ tịch đến đứa mới đẻ, riêng chỉ có những bữa tiệc ở cửa hàng ăn
là tỉnh thành cũng phải ”nể“. Đấy là từ khi Tính chuyển sang uỷ ban
phụ trách nội chính, anh kiên quyết cho thuê làm phụ động hai người
giã giò và hai người chuyên nấu cỗ trước đây ở Hà Nội nay đã trở về
quê. Biết rõ công ơn của Tính nên những bữa cơm anh đặt ở cửa hàng
ăn bao giờ cũng làm cho khách thoả mãn và đến hàng tháng sau vẫn
còn dư vị của bữa ăn. Nó gây ấn tượng đến mức chủ tịch tỉnh phải
khen: ”Cả huyện các cậu chỉ biết mỗi việc làm món ăn còn chả việc
gì ra hồn. Cho chúng tớ vài người đi“.
ở nhà ngay từ non trưa được đứa cháu về truyền đạt ý định của Tính
mọi người đều tíu tít mừng rỡ, cuống cuồng chạy ngược chạy xuôi.
Việc đầu tiên là phải bốc hết chiếc ổ gian bên trái tràng kỷ chỗ bà
đồ vẫn nằm, khiêng chiếc giường tây của nhà Tính lên trải hai lượt
tranh rồi mới trải chiếu hoa. Cái ổ bên kia của ông đồ cũng được
thay lớp lá chuối bằng rơm và dưới bàn tay tỉ mẩn cuả người anh cả
nó phẳng phiu, gọn gàng, đẹp hẳn lên. Xong rồi, anh cả căng cái màn
đôi còn nguyên hồ, xếp cái chăn bông ba cân, bọc vải hoa Trung
Quốc. Cái gối trắng tinh thêu ”tương lai sáng lạn“ và hai con chim
châu mỏ vào nhau bằng chỉ xanh, đỏ. Cái giường tây trông sang như
giường khách của quan huyện ngày trước. ở bàn cũng được đặt bộ
xuyến, tách bằng sứ Giang Tây. Một phích mặt đá hai lít rưỡi, cái
gạt tàn thuốc lá cũng bằng sứ, lọ đựng chè bằng sành màu nâu. Chỉ
trừ có chiếc điều bát và ống đóm tre ngâm ở chân bàn là của thời
các cụ để lại còn tất cả các thứ vừa kể trên kia là vợ Tính mới mở
hòm mang lên. Cả cái hòm để gian giữa nhà toàn đựng chăn màn, ấm
chén, mâm bát, cả gương lược, cả vải và lọ đựng hoa, con cá chuối
bằng thuỷ tinh và con trâu trong cái đĩa sơn mài. Tất cả những thứ
đồ dùng, đồ chơi, đồ ngắm ấy hoặc là của được phân phối, hoặc là đồ
tặng, Tính đưa về. Đưa về để cẩn thận trong hom. Thỉnh thoảng chị
vợ phải mở ra xem có suy xuyển, hỏng vỡ gì, chứ tuyệt nhiên mẹ con
không được mó đến nếu không có ý kiến của anh. Thành ra những thứ
đó nó giống như dụng cụ của nhà khách trên tỉnh, khi nào có khách
thật đặc biệt và có lệnh mới được đem ra dùng. Quét tước, lau chùi,
bầy biện, mọi thứ rồi mỗi lần quay ra, quay vào mỗi người trong nhà
đều nhìn vào nó như nhìn vào nhà khác, ở tận đâu xa lạ.
Vào đầu những năm sáu mươi, một thiếu uý trong quân đội đã là quý.
Với Tính, sự trang trọng quý mến nó ở chỗ khác. Cả huyện này có
người chưa biết anh là ai nhưng từ cụ già đến trẻ con đều biết tên
thằng Sài với sự đồn đại đôi khi hơi quá lên về việc học hành đỗ
đạt của nó. Có thể đến ngày nay chuyện học đại học, chuyện đi bộ
đội vất vả tự học một năm ba lớp, thi vào đại học đứng thứ nhất là
chuyện bình thường, nhưng vài chục năm trước nó là chuyện hoàn toàn
lạ lẫm như một giai thoại khiến ai cũng muốn mình có biết chuyện
ấy, biết người ấy, biết anh em, họ hàng tung tích và cả những
khuyết tật của người ấy. Với thằng em như thế anh có thể nhịn ăn
sáng, bớt chi tiêu may sắm và mua sẵn cho nó cái xe đạp để khi nào
cần nó cứ lấy mà đi. Bây giờ nó lại sắp vào Đảng trong khi có bao
nhiêu người đi trước nó ba bốn năm, luyện tập quần quật vẫn chưa
vào diện ”cảm tình“. Anh hiểu sức rèn luyện và chịu đựng của nó đến
mức nào! Cơm nước xong Sài và đồng chí thiếu uý về phòng anh ngủ
trưa. ”Khi nào dậy hai anh em lấy xe đạp của anh lai nhau về. Anh
mượn xe khác về nhà trước“.
Hiền là trợ lý bảo vệ nhưng mặt mũi không đăm chiêu im lặng cảnh
giác như ta thường nghĩ. Anh cười nói cởi mở tỏ ra xuề xoà. Trong
chuyến đi này hầu như là để về thăm nhà Sài, anh không hề gặp khó
khăn vất vả gì trong công việc của mình. Bữa cơm trưa nay có cả
trưởng ban tổ chức huyện uỷ và trưởng công an huyện, cả hai đều bảo
anh cứ về xã rồi khi nào qua huyện họ sẽ kết luận thêm. Về xã cứ
việc ở nhà Sài, buổi tối cả bí thư, chủ tịch, phó chủ tịch kiêm
trưởng công an đến ăn cơm sẽ mang con dấu theo ”làm luôn“.
Anh và Sài về đến nhà khoảng bốn giờ chiều. Mùa đông vào tầm này
trời đã tím lại, lạnh heo hút. Chiếc đài Oriontôn của kho câu lạc
bộ Hiểu cho mượn, anh khoác chéo qua vai kêu oam oam, tiếng to
tiếng nhỏ thập thõm theo độ xóc của xe trên con đường mấp mô chạy
qua cánh đồng. Những người xã viên làm lụng bên đường đều ngửng
nhìn thèm thuồng và ném lên đường những câu trêu ghẹo anh chàng Sài
ngồi ở phía sau. Bọn trẻ con đi học về lốc nhốc chạy theo cùng với
những đứa chăn trâu, chăn bò, quất roi tới tấp vào đít con vật để
nó lồng lên theo cho kịp nghe đài. Đến đầu ngõ, chúng đứng cả lại
phía ngoài bờ tre xầm xì bàn tán và tranh cãi xem đài này là gì, đã
là oai nhất chưa, ông Hà nhà anh Sài có đài hay không? Còn ở phía
trong những đứa em và cháu ở khắp xóm đã chạy đến ngửa mặt trịnh
trọng nhìn từng cử chỉ của anh bộ đội lạ và nghe đài nói. Ba bốn
chục đứa trẻ, đứa cõng em trên lưng, đứa bế ở nách, có đứa bê ở
bụng, đứa mặc áo vệ sinh, áo bộ đội của người lớn dài quá đầu gối,
đứa mặc quần thắt dải rút lên đến ngang ngực vẫn phải bện lên mà
vẫn loà xoà trùm xuống bàn chân như cái chổi quét nhà. Mặt mũi đứa
nào cũng ngoen nguếch đầy mực. Đứa ”mũi bắc qua mồm“ thỉnh thoảng
lại hút đánh thụt một cái nghe như húp nước canh. Khi Hiền và Sài
vào nhà chúng bâu lại ở chân liếp, chân dại nhìn chỉ trỏ vào cái
nơi chứa đầy bí mật mà chúng đang thi nhau khám phá. Tiếng tranh
cãi ngoài sân rộn lên, tiếng trẻ khóc ồn ã. Tính phải ra quát chúng
mới bồng bế nhau chạy như vịt. Nhưng tất cả vẫn thập thò bàn tán
khiến Tính phải nghĩ ra cách bảo anh cả trèo lên cây cau ở đầu nhà
khoác đài vào cuống buồng cau. Bọn trẻ reo lêm ầm ầm. Không những
chúng nó được thoả thích mà cả xóm đêm nay được nghe đài thoả
thích.
Ngay từ lúc mới đến Hiền đã chứng tỏ cho gia đình hiểu anh như một
người con không cần phải khách khí. Anh gọi ông bà đồ bằng bố mẹ,
xưng con và sà ngay xuống bếp mời bằng được ”mẹ cứ lên trên nhà để
con với cô Tuyết nấu nướng“. Anh vừa làm vừa hỏi han Tuyết chuyện
làm ăn, chuyện ông bà bên nhà, chuyện hợp tác ở quê ta, chuyện có
tranh thủ đợt nào đến thăm Sài nữa không và cuối cùng còn vướng mắc
gì với Sài cứ tâm sự thật. HIền chỉ hơn Sài có sáu tuổi nhưng trông
anh già dặn cả con người, cả cung cách giao dịch, cư xử, khiến có
cảm giác anh phải hơn Sài đến mươi, mười lăm tuổi, có đủ tư thế để
người khác tin cậy, giãi bầy. Nhưng Tuyết, cũng như tất cả những cô
gái ở quê đang yêu chồng, yêu một tình yêu suốt ngày đêm hốt hoảng
thì dù có ấm ức đến cổ cũng không bao giờ hé răng nói nửa lời có
hại đến chồng mình khi chưa có nguy cơ tan vỡ. Cô vui vẻ kể lể mọi
chuyện nhưng khi đến chuyện ”nhà em“ cô vừa ”tố cáo“ vừa thanh minh
”Nhà em chắng cũng bận bịu nhiều nên không viết được thư, em cũng
thấy chẳng có gì thắc mắc“- ”Cái hồi ra chiêu đãi“ chúng em vẫn vui
vẻ với nhau. Vâng còn chuyện ”kia“ chúng em còn trẻ đã lo gì“- ” Em
cũng yên tâm thế. Có chuyện gì, đời nào các bác, các anh ở đơn vị
lại để chúng em ”mất đoàn kết“- ”Em cũng nghe đồn có cô này, cô
khác nhưng ”không túm được tay, day được tóc“ em cũng coi như
không“. Tính rất bực nếu cô em dâu lại loét xoét nói năng điều gì
đó ảnh hưởng đến sự phấn đấu của em mình. Đã mấy lần anh vào cửa
bếp: ”Lên uống nước đồng chí ạ, mặc các em nó làm“. Nhưng Hiền cũng
”cứ mặc em“ Tính đành chắp tay đi đi lại lại ở đầu nhà. Vẫn sốt
ruột, anh xuống nhà ngang bảo vợ: ”Mẹ mày xuống làm với thím Tuyết
hộ tôi đi. Coi như bây giờ mới lừa được con xuống xem thím xào nấu
thế nào“. Vợ Tính ít nói và coi như không biết gì. Chị gọi chồng
thầm thì khi anh quay ra“
”Tôi bảo bố nó này. Người ta cốt về điều tra em mình. Mình làm thế
thành ra ”có tật mới giật mình“ à? Chú Sài không có tội gì cả. Nhà
mình không ai vướng mắc gì cả. Có gì rắc rối là do liên quan đến
bố, đến anh thím ấy. Nếu thím ấy lại bô báo chú Sài chê vợ, chú Sài
hắt hủi, lãnh lẽo với thím ấy để chú Sài mất Đảng thì bố nó cũng
đừng tiếc gì, cho chú ấy bỏ quách đi. Thầy mẹ nhà mình cũng thấy
dại, tại mình làm khổ con mình. Thầy mẹ cũng không cấm đoán gì chú
ấy nữa đâu. Bố nó liệu xem thế nào mà lo cho em“.
Cả năm không thấy vợ nói được câu gì ra hồn và thực tế anh cũng
không để chj tham gia vào chuyện gì cần phải bàn bạc, suy nghĩ.
”Biết gì mà bàn“. Bây giờ xem ra cô ta lại biết đến cả chuyện điều
tra, kết Đảng của Sài. Cô ta nói có lý. Vừa bình tĩnh tỉnh táo lại
vừa đối phó kiên quyết với tình huống xấu. Nhưng anh vẫn không thể
làm như thế, vẫn phải mắng át đi ”Tôi cấm mẹ mày hở ra với ai, nhất
là chú Sài rằng mọi người sẽ cho chú ấy bỏ vợ. Cái mấu chốt đơn vị
người ta đang xem xét là vấn đề vợ con nó, nó có xử sự đúng mức với
đạo đức nhân phẩm của một người cách mạng không đấy“.
Cơm rượu xong, nước nôi chuyện trò đến chín rưỡi ban thường vụ Đảng
uỷ xã và Hiền kéo xuống nhà Tính làm việc cho đúng nguyên tắc. Tính
bảo vợ bế các con xuống bếp nằm với bà còn anh và bố ngồi lặng lẽ
uống nước chè và hút thuốc lào vặt chờ tiếp khi mọi người xong
việc. Trước lúc đi làm việc Hiền kéo Sài nói nhỏ: ”Cậu đi ngủ trước
đi. Vào buồng mà ngủ. Cô ấy vất vả, cậu phải thương người ta. Chúc
ngủ ngon“.
Sáng sớm hôm sau Tuyết dậy từ rất sớm nấu xôi và rang lại thịt gà
tối hôm qua còn thừa để ăn sáng. Hiền dậy, qua cánh cửa mở anh thấy
Sài đang ngồi trong buồng đọc sách. Anh rửa mặt, đánh răng bằng
nước nóng do ông đồ đã pha sẵn. Xong xuôi anh vào bếp hỏi Tuyết
giọng suồng sã: ”Thế nào, vui vẻ chứ?“, Tuyết ngước mắt nhìn anh
cười cười rồi cúi xuống, một lúc cô quay vào lấy vạt áo chấm nước
mắt. Khi quay ra cô vẫn nhìn ngọn lửa của đám củi than chưa khô reo
lên rèo rèo. ”Chắc cậu ấy lại ngồi đọc sách!“- ”Không ạ. Anh ấy ngủ
từ tối đến sáng“. Hiền im lặng vẻ cảm thông. Anh nghĩ ngợi rồi an
ủi: ”Thôi được, cô cứ yên tâm!“- ”Vâng, em cũng nghĩ, trăm sự chỉ
còn nhờ các bác, các anh giúp đỡ nhà em“. Buổi tối, Hiền và Sài đi
sát vào nhau như thể che đỡ cho nhau cái buốt lạnh mênh mang của
cánh đồng táp vào da thịt mỗi người. Tuy cùng ở với nhau một ban,
ăn cùng một bếp nhưng mỗi người một công việc, chả mấy khi ngồi tâm
sự cho nhau tình cảm tâm tư của mình. Về đây, Hiền có dịp hiểu Sài
và gia đình hơn. Anh đã bộc lộ thành thật nỗi lo lắng của anh cũng
như mọi người trong ban, mà Sài đã biết là ai cũng muốn vun đắp cho
Sài. Vì yêu nên mới lo. Đôi khi còn sợ nếu có chuyện gì không hay
xảy ra sẽ làm ảnh hưởng đến tiền đồ vô cùng sáng sủa mở ra trước
mặt. Ai cũng tin là Sài có thể ”đi xa“. ”Đừng để cái chuyện không
đáng gì phá hết tương lai của mình, Sài ạ“ Im lặng. ”Kể ra thì có
thể không hợp với cậu đấy, nhưng nó ngoan, chịu thương chịu khó.
Mình đi vắng, bố mẹ già lúc trái nắng giở giời không có cô ấy ai
trông non, đỡ đần các cụ. Các anh chị em ai cũng có phận có phần cả
rồi!“. Im lặng. Anh còn hé cho Sài biết nhận xét của địa phương rất
tốt. Gia đình vợ có hơi phức tạp nhưng người ta xác nhận Sài không
có liên quan và chịu ảnh hưởng kinh tế, chính trị. ”Nếu bản thân
anh Sài phấn đấu tốt, đề nghị đơn vị vẫn có thể kết nạp. Sự tác
động trực tiếp, có ảnh hưởng lớn đến anh Sài là bố mẹ, chú bác, anh
em ruột thịt. Những người đó đều là những cán bộ đảng viên kiên
cường. Gia đình cũng là cơ sở vững chắc của cách mạng“. Ngày mai
qua huyện xin xác nhận thêm, chắc là cũng tốt thôi. Nó chung, lai
lịch không có vấn đề gì lắm. Còn lại chỉ là chuyện quan hệ với vợ
con. Nếu giải quyết chuyện này êm thấm, cơ bản coi như xong. Nói
tất cả những điều tâm đắc, có thể gọi là rút hết ruột gan mình ra,
Hiền thấy Sài vẫn im lặng. Từ lúc đi với nhau đến giờ, cậu ta vẫn
im lặng, ”Bây giờ mình mới nói điều này. Khi đi phó chủ nhiệm dặn
mình phải tìm mọi cách để các cậu yêu nhau. Yêu thực, chứ không
phải yêu chung chung như trước đây. Đồng chí ấy bảo cậu đã hứa với
đồng chí ấy rồi. Tớ về kiểm tra xem có đúng lời cậu hứa không. Mình
thấy làm cái công việc này nó khó nói quá. Nhưng cậu thử nghĩ, nếu
kết nạp cậu xong, trong cơ quan trung đoàn người ta phát hiện ra
cậu yêu vợ chỉ là đối phó, thì chi bộ ban chính trị này ăn nói thế
nào!“- ”Thôi, anh cứ yên tâm. Tôi biết các thủ trưởng và các anh ở
trong ban ai cũng quý mến, lo lắng cho tôi. Tôi sẽ cố gắng để không
phụ lòng các anh“, Sài còn muốn nói thêm rằng nếu tôi không làm
đúng yêu cầu của các anh, khi về đơn vị thì tổ chuyên môn, chi đoàn
thanh niên và ban chính trị sẽ mất thì giờ và tôi phải viết dăm bẩy
bản kiểm điểm vì sao chê vợ. Cô ta không có lý do gì để tôi chê.
Tình cảm không hợp ư? Tình cảm là cái gì? Bịa. Cậu chỉ bịa ra chứ
làm gì có chuyện tình cảm không hợp. Nhưng anh im lặng rút khăn lau
mắt. Hiền cũng an ủi, tỏ rõ sự cảm động và quý mến Sài nhiều
hơn.
Tất cả đều không quan trọng gì nếu không có cái buổi sáng ngày hôm
sau. Hiền đang rửa mặt ở đầu bể, thấy Tuyết ra múc nước, anh hỏi,
câu hỏi như hôm trước: ”Thế nào cô em, có vui vẻ không?“, Tuyết đỏ
bừng mặt cười, đánh trống lảng: ”Độ nào thì bác với nhà em đi ạ“-
”Khi nào có dịp công tác qua đây mời bác vào chơi với thầy mẹ em“-
”Bác ơi, ở chỗ đơn vị chắc độ này rét lắm nhỉ. Eo ơi, biển nó cứ ù
ì suốt ngày, suốt đêm những gió là gió. Em thấy kinh kinh
là“.
Bằng sự nhậy cảm của người phụ nữ, bà đồ biết là cái hạnh phúc cực
nhọc vất vả đã đến với con bà. Hàng bảy tám năm giời ”ép dầu ép
mỡ...“ tưởng cái số nó phải thế, không ngờ chúng nó lại bén được
duyên nhau. Nói đổ xuống sông, xuống ao, giả thử trời có bắt tội
ông bà làm sao thì cũng hể hả yên phận vì con cái nó không bị dang
dở. Chỉ nghĩ đến thằng út long đong, mà cũng chả hay ho gì chuyện
con cái ”đứt quang, gẫy đòn gánh giữa đường“. Bà cũng phải nén, chứ
con Tuyết vẫn còn theo cái nòi bố nó khinh người, láo lếu, bà chỉ
muốn tống quách nó đi. Dưng thôi, được đơn vị người ta xếp đặt cho
thế này là hơn nhất! Khi Sài và Hiền dắt xe ra ngoài đường bà còn
tất tả chạy theo, ấp cả hai bàn tay vào tay Hiền và nói những lời
có lẽ chỉ có bà và Hiền mới hiểu: ”Cháu ơi, bác đội ơn cháu và các
thủ trưởng lắm lắm. Chỉ có các thủ trưởng mới làm cho thằng Sài sợ,
chứ bao nhiêu năm nay, cả ông lão nhà này, cả bao nhiêu người nói
cũng chỉ như nước đổ lá khoai. Thế là nhà bác có phúc rồi. Nhờ ơn
đơn vị vợ chồng nó được vui vẻ với nhau. Thôi trăm sự nhờ cháu, nhờ
anh em đồng chí bảo ban kèm cặp em. Một nhời của các thủ trưởng
bằng cả vạn nhời của bố mẹ anh chị ở nhà“. Bà nói to, dặn con đứng
cách đấy mấy bước ”Con đi mạnh giỏi. Đừng làm gì trái ý anh em, thủ
trưởng, con nhá“. Hiền cười to, siết chặt tay bà: ”Mẹ ơi, bộ đội
chúng con mà rèn thì có dữ như hùm như gấu cũng phải lành như thỏ,
mẹ lo gì“. Mẹ cũng cười theo cái niềm vui hào phóng của người chỉ
huy. Nước mắt rào ra từ hai khoé mắt nhăn nheo, chảy xuống cả nếp
nhăn như những đường rãnh, chảy vào miệng. Bà nuốt miếng nước mặn
chát vào lòng, rồi lại cười, nụ cười như mếu, bà phải vội vã quay
mặt đi kẻo mủi lòng con trước lúc xa xăm biền biệt.
Thư Hương viết ngày mười lăm tháng tám, tức là vừa đúng một tháng
cô rời nơi đóng quân của Sài ”... Vì kính trọng anh như người anh
thực sự của em, nên em không dám có ý nghĩ nào khác và cũng chả
giấu giếm anh điều gì. Em chỉ băn khoăn tại sao anh không nói thẳng
với em. Nếu biết được vì lý do nào đấy, em và Sài không được phép
gặp nhau, em sẽ đỡ phải ngong ngóng hy vọng suốt cả tuần lễ, để rồi
khi ngồi lên xe mới giật bắn người nghe nói Sài vẫn ở nhà. Em muốn
lao ra khỏi xe, nhưng không thể được. Một đứa con gái như em, nếu
chưa thực sự phát điên, chưa thể làm thế. Viết mấy lá thư cho Sài
để xem hư thực ra sao lại phải xé đi vì biết tính Sài rất rát, nhỡ
đang có chuyện gì thì khổ thân anh ấy. Cũng may đang là dịp hè, nếu
không em phải nghỉ học. Em không thể kể và chắc anh cũng không hình
dung ra nỗi khổ tâm của em. Gần một tháng trời em cứ quay cuồng,
quẩn quanh, không thể nào hiểu vì sao Sài không đến với em. Sài đi
công tác thật hay ở nhà? Mãi hôm kia vào bệnh viện khám cái tội
”suy nhược cơ thể“ em mới gặp Kim y tá trạm xá của trung đoàn. Kim
là em gái của bác sỹ khám bệnh cho em. Kim khẳng định, chắc chắn
những ngày ấy Sài không đi đâu. Thú thực, em rất giận anh. Nhưng em
nghĩ, một con người như anh chắc không nỡ nào lại ”độc ác với em
đến mức ấy (tha lỗi cho em những lời lẽ khiếm nhã anh nhé). Kim
cũng bảo anh là người rất đức độ vì chính anh đã cho Sài về chỗ
mình và đưa Sài đi học. Em tin những ý nghĩ tốt đẹp của em về anh
ngay từ phút gặp đầu tiên là đúng. Thế thì tại sao? Hay Sài vẫn còn
giận em? Nếu vậy, em nhờ anh nói hộ là em có thể bỏ cả mùa hè đến
với Sài và sẵn sàng làm bất cứ việc gì cho Sài, nhưng chỉ cần Sài
bảo một câu: Tôi không cần những thứ ấy là em vui vẻ làm ngay, việc
gì phải lẩn tránh. Em nói với riêng anh chuyện này, chưa chắc đã
phải như thế. Có một lần em hiểu sai việc làm của Sài, em không
muốn có điều gì để Sài phải khổ thêm nữa. Anh có thể coi em như một
đứa em gái của anh, chỉ bảo cho em điều gì đã xẩy ra và em phải làm
thế nào? Em biết là anh rất bận rộn, vất vả, cố dành thời gian viết
cho em ít dòng, anh nhá. Em vô cùng cám ơn anh. Anh nhắc Sài hộ em
đừng hút thuốc lào nhiều. Nếu không giận em nữa hãy viết cho em vài
chữ. Anh cho em gửi lời hỏi thăm sức khoẻ chị và các cháu...“
Một tháng sau, Hiền mới gửi thư cho Hương. Anh nói là vừa đi công
tác về (lại đi công tác). Nhận thư Hương anh phải viết ngay. Vì
phải nghĩ ra cách nói dối cả một lá thư nên mới khó. Với Sài và
Hương, nếu họ cần, anh sẵn sàng bán ngay cái xe đạp Thống Nhất mới
được cung cấp và cái đồng hồ là tài sản duy nhất của anh để cho họ,
không một chút ngần ngừ, suy tính. Nhưng bảo anh phải giải thích
mọi chuyện vào lúc này, anh không thể làm được. Anh cũng không thể
khuyên bảo cô điều gì. Bảo rằng cô phải cắt đứt quan hệ với Sài?
Anh không đủ sức làm như thế. Tình yêu của họ trong trắng quá, sôi
nổi quá. Bảo vệ sự tiếp tục của họ ư? Anh không dám và cũng không
thể làm được. Thái độ của anh từ trước đến giờ là khuyên bảo, cấm
đoán được Sài điều gì hoặc che chở được đến đâu thì cố hết sức mình
đến đấy. Anh ở giữa cái nhân tình thế thái của một con người cụ thể
và chức trách của một trợ lý chỉ huy Sài. Nếu chỉ biết có cương vị
của người chỉ huy sẽ trở thành người không có mục đích. Nhưng tại
sao hai cái đó không phải là một ? Lắm khi Hiểu tự mình hỏi mình
như thế. Hỏi mà không thể trả lời. Chỉ biết nếu chuyện cậu Sài và
Hương vỡ lở ra thì sẽ chẳng còn gì, dù cậu ta có tài hoa đến đâu
cũng không thể chấp nhận được. Không có cả sự tin cậy lẫn tình yêu
thương vồ vập. Hiểu rõ cái nguy cơ của nó, đôi lúc anh phải kìm chế
thô bạo để Sài không được phép bộc lộ, không được làm theo ý mình.
Nếu không, khi Sài trở thành kẻ bị sa thải, bị khinh rẻ, liệu Hương
còn đủ can đảm yêu Sài nữa không? Nếu cô ta vẫn đủ can đảm thì
chính mình cũng vừa khâm phục sự dũng cảm của cô ta, vừa lên án cô
ta một kẻ mù quáng, liều lĩnh, chưa thể đồng tình. Cô ta sẽ sống
với ai khi những người như mình là chỗ dựa tinh thần cuối cùng của
họ! Định bất chấp tất cả ư? Anh chưa thấy trường hợp ”ngoại lệ“ ấy.
Cả tháng giời nghĩ ngợi là thế nhưng viết gì cho cô bé đây, thật
khó khăn, chật vật vô cùng. Đắn đo, cân nhắc mãi anh mới viết được
lá thư cho Hương, né tránh tất cả những câu hỏi của cô, nhưng vẫn
hết sức chân thành. Anh nói rằng kể từ nay anh chính thức coi Hương
như một cô em gái của mình. Mãi mãi anh quý mến cái vẻ thẳng thắn
cương nghị mà rất dịu dàng của cô. Còn chuyện cô muốn hỏi, sẽ có
dịp nào đó, anh hứa nhất thiết khi có điều kiện cho phép, anh sẽ
nói tất cả. Trước mắt, Hương phải bình tĩnh tập trung học tập. Dù
hoàn cảnh nào xảy ra trong quan hệ của cả hai em. Cả hai em, anh
đều quý mến, đều hết sức trân trọng và đáng học nữa. Gửi thư đi
được nửa tháng, anh lại nhận được thư Hương. Cô bé rất mừng rỡ vì
từ nay cô có một người anh, một chỗ dựa tin cậy, một niềm an ủi lớn
để cô bớt đau khổ, cô đơn. Cô cũng hứa dù cô với Sài như thế nào
thì vẫn thiết tha cho cô được là đứa em của anh, để nghe anh dạy
dỗ, chỉ bảo.
Dù sao, những lá thư của anh Hiểu có làm cô mừng rỡ tin tưởng đến
đâu cũng không thể thay thế được nỗi khắc khoải trông chờ Sài. Anh
ơi, tại sao Sài vẫn không viết thư cho em. Anh nói với Sài là đã
đến lúc em không cho phép Sài im lặng nữa. Sài có biết em chết từng
giờ, từng phút vì Sài không. Sao Sài lại ích kỷ, lại nhẫn tâm ”kiên
trì“ im ắng đến thế. Vì lý do gì? Sài không cần viết đến dòng thứ
hai thì em cũng đã chấp nhận kia mà. Không có lý do gì để Sài im
lặng nữa đâu? Anh kính mến ạ, anh sẽ thay mặt em nói cho Sài hiểu
tất cả những đòi hỏi của em anh nhé. Em cám ơn anh rất nhiều.
Hiểu không thể viết thư cho Hương, vì anh không thể giải thích được
nữa. Vì chính anh không cho Sài biết những lá thư này. ”Hồi Tết về,
em nghĩ cô ta cố tránh mặt em. Một năm rưỡi học ở trường, em đến
bách khoa hai lần, cô ta đều ”đi vắng“. Em cũng nghĩ Hương tìm cách
lẩn tránh. Nỗi ấm ức đã làm cho em nguôi nguôi thì Hương lại chủ
động ra đây tìm em. Hay là để em viết lá thư cuối cùng nói lại tất
cả những cái đó và mong Hương thông cảm cho hoàn cảnh của em hiện
nay, em khuyên Hương đi yêu người khác để Hương đỡ khổ“- ”Chưa thể
có lá thư cuối cùng được đâu. Cô ta cũng không cần đến lời khuyên
bảo cho cô ta đi yêu người khác. Cái sách tốt nhất là cậu phải im
lặng. Thôi, cố nén rồi nó quen đi, Sài ạ“.
Một lá thư nữa của Hương, Hiểu vẫn đành im lặng. Thư Hương đề ngày
15 tháng 3, tức là sau ba tháng kể từ lá thư thứ hai vẫn không được
Hiểu trả lời. Cô viết như sau ”Anh Hiểu kính mến, cho đến hôm nay
thì em đã hiểu vì sao anh không giải thích cho em những điều em
muốn nhờ anh từ trước tới nay. Em cũng hiểu sự im lặng của anh sau
hai lá thư em gửi đến anh. Em thành thật xin anh tha lỗi cho em vì
đã làm anh phiền lòng. Nếu không quá khinh bỉ và chê cười, em xin
anh hãy giữ mối quan hệ anh em như anh đã cho phép qua lá thư
trước. Lần này viết thư cho anh, em không còn gì để đau buồn, day
dứt nữa. Em chỉ còn một cảm giác rất ngượng ngùng, xấu hổ với tất
cả bạn bè, với những người thân thiết, với cả chính mình. Vì quá
thương người, quá tin người, quá buông thả với tình cảm của mình,
em đã bị lừa dối. Rất đáng tiếc là kẻ lừa dối phản bội em, đưa em
xuống đáy vực lại chính là người em vẫn thương hại về sự ngây ngô
thật thà, không thể ăn gian nói dối, không thể nắm lấy hạnh phúc
khi nó đã nằm sẵn trong tay mình. Suốt hơn năm năm qua em đã điên
cuồng dại dột tin vào sự im lặng của Sài, những tưởng một người có
chí như Sài, sẽ đang âm ỉ, nung nấu phá vỡ một cái gì đó cho chính
anh ấy, cho cả em. Em sẵn sàng chịu đựng, sẵn sàng chờ đợi đến bất
cứ khi nào Sài được ”Giải phóng“, dù chỉ mười ngày được sống tự do
bên nhau, còn hơn năm năm sống kìm kẹp tù túng. Nhưng em đã quá
lầm. Cũng may, mấy năm qua có thể là các anh đã giữ không cho Sài
gặp em, vờn dỡn bên em với thứ tình cảm giả dối! Nếu không, hôm
nay, em sẽ là gì trước sự phản bội của anh ta.
Anh Hiểu kính mến, một lần nữa xin anh tha lỗi cho những lời lẽ
thiếu lịch lãm của em. Vì muốn dãi bày để anh hiểu rõ tâm trạng em,
em không thể có lời lẽ nào êm nhẹ hơn mỗi khi nói về hắn. Hẳn rằng
hôm nay Sài đang hí hửng với việc mình đã làm, thành tựu đã đạt
được trong cái gian buồng mà ai cũng tưởng Sài sẽ phải đập đầu, cắn
lưỡi mà chết. Thôi, cho em dừng bút vì nếu viết nữa, chắc chắn là
em không thể ghìm nổi sự uất giận căm thù của mình. Cho em gửi lời
kính thăm chị, chúc các cháu ngoan học giỏi. Nếu không thấy phiền,
anh viết cho em ít dòng. Em gái của anh“.
Cô không hề giải thích về nỗi căm thù của mình. Hẳn cô cho rằng anh
đã biết cả rồi, không cần nhắc lại cái việc cô cho là kết quả của
một hành động ghê tởm. Vợ Sài đã có chửa được bốn tháng. Tháng
trước nhận thư anh Tín, Sài biết tin ấy. Không buồn, không vui,
không xao xuyến, anh dửng dưng như kẻ đi đường trông thấy người đàn
bà khệ nệ vác cái bụng cao lên lùm lùm đi về phía mình. Lá thư đọc
xong, lướt qua một lần xong được để giữa bàn như một thứ giấy công
cộng. Ai muốn đọc chăm chú hay chỉ cần liếc qua cũng đều được cả.
Có điều lạ là biết chuyện đó, anh em bè bạn trong ban không ai chúc
tụng, tán tỉnh hay đùa cợt. Ai cũng có cảm giác nó như một vật dễ
vỡ, dễ đổ đang để ở nơi chông chênh quá, hờ hững quá. Một tháng
qua, Sài buồn hay vui, đau khổ hay sung sướng? Không cần bàn đến
chuyện ấy. Chỉ biết Sài vẫn phải đều đặn lên lớp và soạn bài, sáng
dậy tập thể dục và chiều tăng gia, ăn và ngủ, sinh hoạt Đoàn tối
thứ sáu và học hát tối thứ năm, sáng chủ nhật lao động xã hội chủ
nghĩa và tối sinh hoạt ban Năm, kiểm điểm thành tích trong một tuần
qua. Cứ một nề nếp trật tự, không thể uể oải, vắng thiếu, nó sẽ
quen đi, như Hiểu nói. Đêm nay, sau một ngày ”thay mặt“ cho bạn
chính trị đi xúc than cho anh nuôi, Sài đã ngủ rất ngon lành từ lúc
chín giờ. Hiểu nằm đọc thư Hương xong, ngồi dậy buông màn cho Sài,
rồi ngồi nhìn khuôn mặt cau có dư tràn sức lực đang ngủ rất yên
lành. Lẽ nào cậu ta phải hứng chịu tất cả những lời lẽ cay độc xỉ
vả nặng nề của Hương? Anh lặng lẽ trút một hơi thở dài, lặng lẽ
đứng dậy tắt công tắc ngọn đèn chụp ở đầu giường mình, buông màn
năm. Gần hai giờ sau anh vẫn còn thấy tê mỏi ê ẩm cả một bên đầu.
Anh dậy, lặng lẽ đi lên, đi xuống trên con đường rải nhựa chạy lên
đồi, ban ngày trông như cái xoong khổng lồ đã cũ. Cậu ta đã ”yêu“
vợ để sắp sửa có một đứa con, để có một lá thư của Hương! Vốn là
người điềm tĩnh, kín đáo, Hiểu chưa hé lộ chút nào để Sài biết đến
lá thư thì gần hai tháng sau, anh nhận được giấy báo hỉ: Hương lấy
chồng. Trước đó mấy ngày, chi uỷ cũng đã được phổ biến quyết định
của Đảng uỷ liên chi ”tham, chính, hậu“ không kết nạp Sài theo đề
nghị của chi bộ ban chính trị. Bản thân Sài rất tốt. Gia đình cơ
bản, có ảnh hưởng rất tốt. Trước, sau cách mạng và hiện nay không
hề có vướng mắc gì. Duy có mối liên quan đến gia đình vợ hết sức
nặng nề. Bố vợ có nợ máu. Anh vợ cùng bố đã làm chỉ điểm bắt hàng
loạt cán bộ cơ sở trong đó có chú và anh ruột Sài. Địa phương (kể
cả xã và huyện) đều xác nhận Sài không chịu ảnh hưởng về kinh tế,
chính trị với gia đình vợ. Nhưng muốn hay không đây là vấn đề xã
hội còn đang tồn tại rất phức tạp, bắt buộc phải có thời gian để
xem xét. Thời gian đến bao giờ? Sao lại có quyền hỏi và bất cứ ai
cũng không thể trả lời được câu hỏi ấy. Phải có thời gian để xem
xét mối ảnh hưởng với gia đình và vợ cũng phải theo dõi cả động cơ,
xem có gì lệch lạc, hành động có gì thiếu dũng cảm không. Đến bao
giờ? Là chi uỷ viên trực tiếp phụ trách quần chúng, nếu Sài hỏi câu
ấy thì mình phải trả lời thế nào? Tất nhiên, Hiểu không bảo cậu ta
không có quyền hỏi như anh tự bảo mình, nhưng anh sẽ lại nói rằng
hãy kiên trì, bền bỉ, đây cũng là một thử thách xem sức chịu đựng
của Sài đến mức độ nào? Có thể mươi lăm ngày sau, Sài biết chuyện
mình không được kết nạp, cả chuyện Hương đã lấy chồng! Đấy là cái
khả năng xấu nhất mà Hiểu đã tính đến, khiến cả tuần lễ không bữa
nào anh ăn nổi hai lưng cơm. Nhưng bếp ăn của các sĩ quan ở riêng,
nên tuy những chiến sĩ như Sài, vốn tinh tường, để ý từng cử chỉ
nhỏ nhặt của cấp trên vẫn không hề biết vì sao người Hiểu gầy rộc
hẳn đi.
Chính uỷ Đỗ Mạnh và trung đoàn trưởng ở ngôi nhà mái bằng trên đỉnh
đồi. Đây là ngôi nhà duy nhất có sân trời ở khu đồi này nên anh em
gọi đùa hai người chỉ huy là ”người nhà trời“. ”Người nhà trời“
lắng nghe, thấu hiểu hết mọi chuyện. Không chỉ ở trong đoàn bộ mà ở
tất cả ác đại đội trong trung đoàn đều không thể giấu nổi chính uỷ
một điều gì. Biết thì nhiều, giải quyết đến đầu đến đũa được là
bao. Không phải ông không có đủ quyền hành và những quy chế kỷ luật
điều lệnh để bắt họ phải làm cho đúng đắn, cho nghiêm ngặt, cho
chính xác. Nhưng cũng có nhiều mối quan hệ dằng níu, chưa thể bất
chấp bỏ qua. Nhiều khi, ông thấy mình bất lực với những việc mà ông
nghĩ có thể làm khác hơn, tốt hơn nhiều, vừa thoả mãn những đòi hỏi
của con người, vừa đem lại lợi ích và sức mạnh cho quân đội, cho
cách mạng. Chẳng hạn như việc vào Đảng của câu Sài. Với cương vị bí
thư đảng uỷ trung đoàn, cơ quan Đảng cấp trên của Đảng uỷ liên chi
”tham, chính, hậu“ nhưng ông không thể lấy quyền bí thư để chỉ thị
cho đảng uỷ cấp dưới. Lại càng không dùng quyền tập thể của đảng uỷ
trung đoàn làm cái việc thuộc phạm vi đảng uỷ cấp dưới có toàn
quyền quyết định. Hơn nữa, việc không hoặc chưa kết nạp một quần
chúng vào Đảng, không bao giờ có khiều nại kiện cáo. Chả nhẽ lại đi
kiện là tôi tốt lắm, tôi cống hiến và hy sinh nhiều lắm, cấp trên
phải chỉ thị cho chi bộ kết nạp tôi vào Đảng? Hoạ là anh chàng hâm!
Mà dù có nhận được đơn từ ý kiến của xung quanh về việc đó thì cùng
lắm cũng chỉ yêu cầu cơ sở xem xét, nghiên cứu kỹ lưỡng, công minh
chứ làm sao mà thay thế được họ. Đã không làm thay, họ có đầy đủ lý
do để cấp trên không thể trách cứ. Đa số thành viên của Đảng uỷ
liên chi đã quyết định và thành nghị quyết chung rồi, biết làm thế
nào. Hôm ông chuẩn bị ra đi, không biết được thông báo từ bao giờ
mà mãi đến khi chỉ còn hai ngày nữa rời khỏi trung đoàn, mọi người
mới biết ông được điều động đi chiến trường. Sau buổi liên hoan
chia tay với cán bộ trung đoàn bộ, ông bảo Hiểu và Hiền ở lại. Đêm
ấy hai người ngồi với chính uỷ rất khuya để nghe ông tâm sự những
điều mà ông gọi là ”nhân tình thế thái“, về cách ăn ở, đối xử và
quan tâm đến nhau. Đến đêm nay, cả hai mới ớ người, nhận ra mình
như một kẻ có tội trong niềm mãn nguyện về công lao của mình đối
với quần chúng, cụ thể là chuyện vợ con của cậu Sài. Các anh là ai
thế? Các anh ra điều kiện cho nó phải yêu vợ mới được vào Đảng. Nó
”yêu“ vợ nó theo ý muốn các anh thì lại không được vào Đảng nữa vì
lai lịch nhà cô ta xấu quá. Các anh thử đặt mình vào đấy xem có
phải là mình đã tạo nên bi kịch cho họ chưa? Chả nhẽ tôi lại xui
nó, xui các anh là cho nó bỏ vợ đi. Tôi không làm được việc đó.
Không phải tôi cũng sợ mình không có thành tích giáo dục nhân viên
như các anh. Tôi sợ cái hiện tượng có vợ con, yêu đương tìm hiểu
nhau hẳn hoi, kỷ niệm sâu xa và thề thốt sắt đá hẳn hoi nhưng khi
đến nơi đóng quân mới, nhất là nơi phố xá đông vui, thấy con gái hơ
hớ thì liền nẩy ra ý định tìm lý do bỏ vợ, bỏ con. Chuyện ấy đã có
không ít đâu. Là chính uỷ của trung đoàn, tôi không cho phép mình
để trung đoàn phát sinh những chuyện ấy. Vì vậy tôi phải ngăn chặn,
phải răn đe khi trong môi trường xã hội xuất hiện sự đe doạ ấy.
Không ngờ, để được an toàn, đỡ khỏi xì xào mang tiếng về nhân viên
của mình, các anh không cần để ý hoặc ngại liên luỵ, ngại hiểu
nhầm, bằng cách này, cách khác, bất kể đúng sai ”dẹp“ luôn những
khúc mắc riêng tư trong bộ phận mình, trong mỗi cá nhân quanh mình.
Thế là gọn. Thế là nhẹ nhàng và khôn ngoan. Nhưng các anh có nghĩ
các anh đã giết một tâm hồn trong sáng, một niềm tin, một tình yêu
của một con người với cách mạng, với quân đội, với xã hội tươi đẹp
của chúng ta không? Tôi nói với các anh khi việc đã rồi cũng chỉ là
để rút kinh nghiệm thôi. Ôi chao, tôi làm chính uỷ cũng có làm được
vài ba việc cho trung đoàn, nhưng với những con người cụ thể thì
toàn là chuyện rút kinh nghiệm. Khi mình rút kinh nghiệm thì đã kết
thúc một con người, đã đẩy một con người từ tốt sang xấu, từ yêu
thương sang thù ghét co khi đã hết cả đời người ta rồi còn gì! Các
anh có cảm thấy thế không? Hãy kiên quyết, kiên quyết đến tàn nhẫn,
đến độc ác, buộc tất cả mọi quân nhân chấp hành nghiêm ngặt những
quy định của kỷ luật,của điều lệnh và pháp luật của Quân đội và nhà
nước, của nhân phẩm và đạo đức con người xã hội chủ nghĩa. Nhưng
không được phép bắt người khác thích thú với cái mình thích thú,
ghét bỏ cái mình ghét bỏ. Yêu ghét ai đều do người khác chỉ huy.
Ngưòi chỉ huy yêu ai, lập tức tất cả xúm vào người đó, cố áp mình
vào cái danh dự của người ấy để được chú ý, được chứng tỏ mình cũng
tân tiến, cũng thức thời, cũng đồng cảm sự yêu mến với chỉ huy. Chỉ
huy ghét ai thì tìm cách xa lánh, ghét bỏ người, ấy là chưa kể nhân
”dậu đổ“ thì ”bìm bìm leo lên“. Xin lỗi, tôi được kể ngay cái
chuyện các anh. Mờy năm trước tôi để ý và cứ buồn cười một mình về
sự ”tiến bộ“ của anh Hiểu. Anh Hiền mới về chưa biết. Hàng chục năm
qua chắc anh Hiểu đã biết tình cảm của tôi với anh. Có thể nói gọn
thế này: Nếu cần một cán bộ cấp dưới có trình độ làm việc, làm được
nhiều việc một cách thông minh và tỉ mỉ, nhanh mà chính xác, một
người sống nhường nhịn và chăm lo cho đồng đội và cấp dưới hơn cả
chính mình, một người sống trung thực không có kẻ ghen tị đố kị...
người đó là anh, anh Hiểu ạ. Hàng chục năm nay anh vẫn thế. Nhưng
tự nhiên, anh ”lạc hậu“ rồi ”tiến bộ“ là thế này. Khi có chế độ quy
định sĩ quan được phép mặc thường phục ngoài giờ hành chính và
những ngày nghỉ, anh như mọi anh em khác sắm được một bộ ”cánh“,
cũng gọi là ”kẻng“. Một sơ mi ”đuôi tôm“ trắng tinh, một quần kaki
Pháp màu be, một săng dan quai vàng. Tất cả đều sát sỉnh, hợp với
cái dáng cao thon và màu da trắng trẻo của anh. Có một buổi sáng
chủ nhật, tôi nhìn thấy anh Hiểu ở phố, mê quá. Nghĩ bụng giá mình
còn trai trẻ, có dáng, thì cũng phải ”liều“ làm một bộ ”tủ“. Mình
đen đủi, ục ịch, lại có tuổi, không thể ”đua đòi“. Nhưng trong điều
kiện của từng người cho phép và không ảnh hưởng gì đến điều lệnh kỷ
luật thì việc gì mà không để anh em mặc đẹp như thế. Bỗng nhiên dăm
tháng sau nghe cơ quan trung đoàn bộ xì xaoflaf anh Hiểu ”biến
chất“, ”cắm đuôi tiểu tư sản“, ”Hiểu xa rời quần chúng, không giản
dị khiêm tốn“. Và bao nhiêu thứ chuyện xấu khác. Chủ nhiệm chính
trị thì thào với tôi: ”Tư tưởng cậu Hiểu có vấn đề, anh ạ“. Tôi
cười phá lên bảo: ”khốn khổ, cả đời nó có mỗi bộ quần áo thường
phục, cứ để nó mặc chứ tư tưởng cái gì. Tất nhiên mặt mũi như tôi
với ông có quét sơn vào cũng không thể đẹp hơn thì đành chịu. Anh
em nó có một bộ để diện ngày nghỉ, kệ nó, đừng làm gì để nó ”chột“
đi. Tôi ”dẹp“ ngay chuyện đó, nhưng chính anh Hiểu, anh cũng không
dám chịu trách nhiệm với sự thích thú của mình, với cái quan niệm
thẩm mỹ của mình. Anh chiều chuộng mọi người, làm vừa lòng họ bằng
cách cho chiếc áo ”đuôi tôm“ vào trong cái quần ”quân dụng“ rộng
thùng thình, vá chằng vá đụp, để đi cuốc tăng gia, đi lấy phân, lấy
gio, để ít lâu sau nó ngả sang màu khác, nhăn nhàu đầy vết ố. Còn
ngày chủ nhật thì lại ”diện phố“ bằng chiếc quần màu be với cái áo
quân phục đã lộn lại cổ và vá ở vai. Bằng sự cọc cạch, ”phản bội“
cái đẹp, anh Hiểu trở thành người ”giản dị“, mộc mạc ”hoà mình với
quần chúng“, ”lập trường vững vàng“, ”đạo đức trong sạch“. Trở
thành ”tiến bộ“ hẳn lên. Cái đó nó nguy hiểm ở chỗ là nó ngấm vào
từ bao giờ, đã thành máu thịt, thành hệ tư tưởng rất sâu xa trong
mỗi chúng ta, trên mọi lĩnh vực của xã hội, của đời sống con người.
Vì thế, các anh mới yêu thương, lo toan cho thằng Sài như những
việc các anh đã làm. Thú thật, tôi rất buồn cái cách ”sống hộ“
người khác, được gọi là ”tập thể quan tâm“ như thế. Hãy đòi hỏi ở
mỗi con người sự cống hiến cao nhất khi xã hội cần, tập thể cần.
Đến khi tập thể quan tâm đến người ta thì cũng phải quan tâm đến
cái người ta cần, chính người ta đòi, người ta khát, chứ không phải
mình quan tâm cái mình muốn ở người ta. Tóm lại, nhân việc của cậu
Sài, tôi nói những suy nghĩ của tôi với các anh, chứ không phải
những suy nghĩ của tôi sẽ giúp cậu ta được điều gì. Tôi đã nói với
các anh ở đảng uỷ liên chi là phải xem xét và vận dụng linh hoạt
trường hợp này. Các anh cũng động viên, an ủi cậu ta và cái gì mình
thấy đúng đắn phải bênh vực, dám chịu trách nhiệm về nhân cách và
lai lịch của cậu ta.
..................................................
bạn đang đọc truyện tại yeutruyen.wapsite.me chúc các bạn vui vẻ
.....................................................
Chương 6
Nhưng nó giống như ông nói. Biết tất cả mọi cái để mà rút kinh
nghiệm thôi. Cái gì xảy ra, nó vẫn cứ xảy ra. Cái gì đã qua, nó vẫn
phải qua đi. Nghĩa là, cả hai cái tin: không được kết nạp Đảng
trong năm nay và Hương đã đi lấy chồng tháng trước vẫn cứ đến với
Sài, và anh vẫn không thể phát điên, không thể nổi khùng, không thể
nằm ỳ, không thể nói năng vô trách nhiệm và thiếu tính tổ chức.
Sáng dậy tập thể dục, chiều tăng gia, vẫn soạn bài đầy đủ, lên lớp
đều đặn. Tối thứ sáu sinh hoạt đoàn, tối thứ năm học hát ... Không
thể uể oải, không thể thiếu vắng, dù đã gần một tuần nay, hầu như
không đêm nào anh chợp mắt được!
Cho đến bây giờ chưa ai lý giải được chính xác và sâu xa về một lý
tưởng thiêng liêng của người chiến sĩ thời bấy giờ. Đấy là cuối năm
một chín sáu tư. Những đơn vị bổ sung cho chiến trường đã lên tới
quy mô cỡ trung đoàn. Nhưng những tiếng ”đi B“ còn là tiếng thì
thầm, những người đi ”B“ còn phải chọn lựa, lựa mười người trong số
hàng dăm bảy trăm, lựa hàng trăm trong số vài ba nghìn lá đơn tình
nguyện. Người đã là quân nhân viết đơn tình nguyện đi ”B“. Người
đang là thanh niên ở nông thôn, ở nhà máy, ở trường học viết đơn
xin nhập ngũ. Hầu như đã là thanh niên hồi bấy giờ ít ra ai cũng đã
một lần tình nguyện cầm súng sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc, cho
thắng lợi của miền Nam. Tất cả vì đồng bào miền Nam ruột thịt,
những lá đơn viết bằng bút mực, những lá đơn viết bằng bút chì, có
cả những lá đơn viết bằng máu. Hàng vạn, hàng triệu lá đơn chân
thành sôi sục không ai biết hết nguyên nhân mà ta vẫn hay gọi là
động cơ, nhưng chắc chắn những cái tên: Ma đốc, Hạm đội bảy, khu
trục hạm, những máy bay phản lực oanh tạc ”trả đũa“, những quả bon
rơi xuống Lạch Trường, Hòn Gai ngày mồng năm tháng tám như một sự
kích thích để nổ bùng lên lòng căm giận và chí khí quật cường vốn
là dư thừa của mỗi người dân. Cái sức bùng nổ ấy ầm ầm trên đài
phát thanh, choán đầy trên các tờ báo hàng ngày. Ngoài sự sôi sục ở
tất cả đều có ra, mỗi con người còn có một cái gì đấy mà người khác
khó biết hoặc có biết cũng coi như không, cũng phải bỏ qua. Nó
giống như chiếc xe đang đi không thể dừng lại vì một hạt bụi bám
vào mắt xích. Từ hơn một năm trước chính uỷ Đỗ Mạnh đi chiến
trường, trung đoàn bộ đã xôn xao, dò hỏi và nghe ngóng xem ai sắp
được ra đi, bao giờ đến lượt mình vinh dự lên đường làm cái nghĩa
vụ thiêng liêng bất chấp gian lao, sẵn sàng đổ máu và không hề nghĩ
đến ngày trở về ấy. Trong số những người cuồng nhiệt phải kể đến
Sài đầu tiên. Anh đã viết ba lá đơn lên Đảng uỷ trung đoàn, Đảng uỷ
và Bộ tư lệnh quân khu. Hai trong số những lá đơn ấy anh viết bằng
máu chích từ tay mình. Hành động của Sài không thể gọi là đột xuất
trong lúc này. Người ta vẫn nhắc nhở tên anh cùng với hàng trăm
người khác trong những thông báo trong các buổi mít tinh, hội họp ở
Quân khu như những người chiến sĩ tiên phong trong nhiệm vụ chiến
đấu. Cán bộ chiến sĩ trong trung đoàn nhìn Sài trìu mến và khâm
phục con người lặng lẽ đầy chí khí và nghị lực. Chỉ riêng có Hiểu
và Hiền thì hiểu rõ Sài qua từng dòng trong mỗi lá đơn. Không thể
không công nhận lòng sôi sục và khát vọng trở thành dũng sĩ ngoài
mặt trận của anh như hàng vạn thanh niên khác. Nhưng ở đây đang
thiếu giáo viên, nhất là giáo viên dạy giỏi như Sài. Phần khác họ
thấy thương Sài và muốn làm tất cả mọi việc cho ”chú em“ trong cái
nhóm ba người ấy. Đặc biệt là Hiểu, Sài có thể nhận thấy một người
duy nhất trên đời này lại chứa đọng đầy đủ tình cảm của cha, của
mẹ, của một người thầy, một người bạn, một người anh, người yêu và
thậm chí như một đứa em ngoan ngoãn của Sài nữa. Hiểu băn khoăn về
việc của Sài. Rất lâu sau, nhân một đêm đi chơi anh gợi ý: ”Mình
nghe nói sắp tới có thể điều nguyên cả một E, một F đi. Hay là ở
lại khi nào đi một thể Sài ạ“- ”Thôi, em xin anh, các anh cứ đề
nghị dấn lên hộ em. Đi sớm ngày nào em đỡ khổ ngày ấy“. Hiểu lại im
lặng như người phạm lỗi. Gần một năm nay, kể từ khi cô Tuyết đã đẻ
thằng con trai, như vồ được hạnh phúc của cái nhà này thì Sài lại
càng đau buồn thêm. Anh buồn cho anh, và lo cho cả số phận của đứa
con sau này rồi không biết sẽ ra sao. Chỉ có điều chắc chắn là nó
chỉ có một trong hai người: bố hoặc mẹ. Dường như ở cái trung đoàn
này, chỗ cách nhà chưa đầy hai trăm cây số chỉ đi và về hết vài
ngày đường không thể là chỗ dấu thân ”biệt tăm“ như ý nghĩ thơ dại
hồi mới đi bộ đội. Vả lại, sau cái lần cắn răng làm theo Hiền ”chỉ
thị“ Sài thấy đời mình không thể ”dũng cảm“ lần thứ hai như thế.
Nhưng bỏ nhau ư? Đến lúc này thì lại càng không thể nào được. Sài
nghĩ ra cách khác: Đi Nam. Vượt qua giới tuyến bên kia không ai có
thể chạy theo tóm anh lại. Cuộc chiến tranh vừa công khai vừa giấu
giếm cũng không ai bắt anh cứ phải viết thư về, cứ phải ”đoàn kết“
với vợ. Trong chiến đấu có bao nhiêu lý do để không ai hành hạ anh
chuyện vợ con. Được yên thân cái đó thì khổ cực có là gì, hy sinh
có là gì đối với anh. Hiểu biết tất cả những chuyện ấy. Anh biết cả
từ khi có con, Sài sẵn sàng gửi hết tiêu chuẩn đường hàng tháng,
mua tôm he nõn gửi về giã nấu cháo cho con, nhưng Sài rất sợ phải
về nhà. Về nhà chơi với con lại phải nhìn thấy mặt mẹ nó. Sài ước
có lần nào cô ta đi đâu, kể cả đi tằng tịu với ai đó càng hay. Cô
ta đi, để thằng con ở nhà với ông bà và Sài xin nghỉ phép về bế
con, chơi đùa với nó.
Cái việc đó không xảy ra thì Sài vẫn phải về. Anh là một trong số
năm mươi hai cán bộ, chiến sĩ trong trung đoàn được chọn bổ sung
cho đơn vị đi B. Hiểu đi ”công tác“ và ”tranh thủ“ để đi cùng Sài
suốt cả mười lăm ngày phép của cậu ta. Biết đâu, đây chả là lần
chia tay cuối cùng. Vì thế cả hai đều thấy bịn rịn im lặng, cái
tình thương yêu nhau chứa chất ở mỗi người lúc nào cũng chỉ chực có
cớ gì đấy để được bộc lộ. Họ về đến nhà lúc chập tối. Lần này không
có trẻ con theo, cũng không có chuẩn bị trước. Ông đồ là người nhận
ra đầu tiên. Từ trong nhà, ông hỏi ra phía ngõ, nơi có bóng người
nhập nhoạng đang giảng giải điều gì cho nhau: ”Ai như Sài về hở
con“. Bà đồ từ trong bếp nhao ra mắng ông: ”Sài đẹn gì mà ông cứ
đứng ngây ra thế. Nó đâu rồi“. Bà chạy ra phía ngõ, vừa lúc hai
người đi vào và cùng ”chào mẹ“. Vẫn như mọi lần, bà nắn nắn hai tay
rồi từ đầu đến lưng con, cười, nước mắt chảy ràn hai má: ”Đây là
bác Hiền hở em?“- ”Dạ, con là Hiểu ạ“- ”Lần này anh Hiểu, chắc anh
Tính đã nói với thầy mẹ“- Có, có anh Hiểu quê ở Mỹ Đức bên Hà Đông.
Em ơi quý hoá quá, cả nhà cứ mong em với em Sài“. Chị Tính như là
vô tình đi qua chào ”Bác về chơi, chú Sài!“ rồi chị đi vào mãi tận
xóm trong chừng nửa cây số gọi thằng em họ vừa được Tính xin cho đi
công nhân đường sắt: ”Chị lại nhờ chú việc này quan trọng lắm. Chú
đạp xe vào ngay huyện bảo anh Tính có anh Sài và anh Hiểu về“. Chị
về qua nhà anh cả: ”Chú Sài mang bạn về, anh ra xem thế nào“. Chị
cả lạnh nhạt: ”Thì đã có ông bà, chú Tính rồi. Nhà tôi đang dở tay
một tý“. ”Thôi, anh cứ bỏ đấy chạy ra tiếp người ta một lúc. Nhà em
chưa về. Ông nhà mình già, nói năng theo lối mới bây giờ không hợp,
chả nhẽ lại để người ta ngồi không“- ”Có ai đi tìm chú Tính chưa?
Thôi được, thím cứ về lát nữa tôi ra“. Dù anh đã liều quyết định
khi chưa hỏi ý kiến vợ nhưng quay về vợ Tính cũng dủm dỉm cười nghĩ
bụng: ”Lát nữa“ của anh ấy cũng được đến nửa đêm“. Chị về đến nhà
thì mẹ chồng gắt: ”Con mẹ Tính này hay nhỉ. Định bỏ kệ mụ già này
đấy à?“. Chị thản nhiên: ”Động tý bà cứ cuống lên. Thế không đi nhờ
người tìm con giai bà về à?“ Bà đồ mới ớ ra cái việc quan trọng bậc
nhất ấy bà đã quyên khuấy đi mất. Bà hỏi giọng vẫn hơi gắt để chữa
ngượng ”Thế bây giờ định thế nào?“- ”Còn thế nào nữa. Cứ bảo thím
Tuyết làm gà nấu cơm, xào thêm đĩa su hào, nấu bát canh miến“- ”Thế
nào thì chị quàng quàng lên hộ tôi, không khéo rồi đến đêm mới được
miếng ăn“. Biết tính mẹ chồng hay cuống cuồng chị đủng đỉnh vào nhà
làm tuần tự các công việc như đã thành nếp quen của chị.
Vợ chồng chị đã ra ăn riêng hàng chục năm nay, không hề ”liên quan“
gì kinh tế với bố mẹ và em chồng nhưng mỗi khi có khách, nhất là
khách của chú Sài, ”nhà dưới“ (anh chị đã xây một ngôi nhà cao rộng
khang trang gọi là ”nhà trên“) chỉ việc có bắt gà, nấu cơm còn mọi
thứ chị phải lo. Cũng phải nói thêm, giữa ”nhà dưới“ với ”nhà trên“
chỉ cách nhau một khoảng sân và khách xa về không thể biết có sự
tách biệt nào nhưng ”nhà dưới“ vẫn là ngôi nhà nghèo khó toạ tệch
của cái làng Hạ Vị lụt lội ngày xưa. Còn ”nhà trên“ bầy biện và
cung cách ăn ở như bất cứ một nhà khá giả lịch sự nào trên tỉnh.
Mấy năm nay trồng cây nông sản bán cho nhà nước và được cung cấp
gạo hàng tháng, làng Hạ Vị không hề biết đến cái đói, nhà nghèo đến
đâu thì cũng có con lợn, dăm bẩy con gà, vài chục ba cân gạo. Ngoài
mấy thứ đó ra khi có khách sang trọng đến ”nhà dưới“ cũng chỉ còn
món muối trắng trộn với tiết luộc để chám làn nên đặc điểm sâu xa,
có người đi khỏi làng đến ba đời vẫn không thể chấm thịt gà luộc
bằng bất cứ thứ nước chấm gì ngoài muối trộn tiết luộc. Trong khi
đó ở ”nhà trên“ bao giờ cũng có đủ hành tỏi, riềng mẻ, gừng nghệ
từng chùm, từng khóm hoặc ở ngoài vườn hoặc treo trên gác bếp, để ở
lọ trong xó buồng. Hồ tiêu và bột ka ri, ớt tươi, ớt khô và chanh,
dấm, đường và mỡ, dâu ngâm, bột sắn dây và rượu thuốc, nước lọc đầy
chai và phíc đầy nước sôi... Bất cứ lúc nào có khách sang của chồng
và bạn bè đơn vị chú Sài đến, vợ Tính cũng phải biết tiếp thứ gì
cho hợp mùa, hợp thời, vừa lịch sự vừa thoả thuê. Khách ”nhà dưới“
ở lại ăn cơm, thì mẹ chồng chỉ làm thịt con gà còn chị sẽ ”cung
cấp“ gia vị. Nếu tính về ”tổ chức chuyên đề“, thì phải gọi chú em
con bà gì hơi nghễnh ngãng nhưng rất tinh nhanh đã được Tính ”tập
huấn“ và cho lên cửa hàng ăn của huyện ”tham quan“. Thành ra khách
đến ăn cơm hoặc chỉ uống cốc bột sắn ở nhà Tính đều không có cảm
giác làng Hạ Vị lúi xùi, ”chém to kho mặn“. Khách thật sang, chỉ
nhìn vào cốc nước, bữa ăn đã phải khâm phục đây là một làng quê văn
minh.
Vợ Tính bày đĩa bánh quy và đặt phong kẹo lạc đưa xuống ”nhà dứơi“
gọi Sài ra cửa: ”Chú mời ông và bác Hiểu xơi tạm kẻo đói“. Nó và
đặt vào tay Sài đĩa bánh xong chị lẳng lặng quay đi. Sài kính nể
chị như một người mẹ, không bao giờ anh từ chối hoặc cãi lại chị
bất cứ việc gì. Chị ra vườn nhổ mấy củ su hào, khóm hành hoa, vào
buồng lấy gừng, hồ tiêu rồi rượu thuốc, mâm bát, ớt tươi, ớt khô...
Giao tất cả mọi thứ cho Tuyết và hướng dẫn cô thứ tự từng việc,
từng cữ mặn nhạt xong chị rửa chân tay lên nhà sắp chăn chiếu, màn
gối trên chiếc giường giải quạt ở gian ”buồng khách“ rồi mới gọi cả
hai đứa con rửa chân tay mặt mũi cho chúng. ”Nhanh lên, bố Tính sắp
về“. Việc ăn uống khách khứa ra sao chị không hề biết đến. Sớm ngày
mai chị dậy đun nước, đánh rửa ấm chén để khi khách dậy có nước
nóng rửa mặt pha trà. Xong những thứ công việc đó không bao giờ chị
ăn một miếng thịt, húp một lưng canh sau khi khách ”nhà dưới“ đã ăn
uống. Ngay cả những đứa trẻ cũng không được lai vãng, trừ phi các
cháu cùng bà giấu giấu giếm giếm mà chị không biết. Hồi đầu bà đồ
cứ dấm dứt không yên, sau Tính phải gắt lên: ”Bà làm để tiếp khách
hay tiếp con mẹ Tính và bọn trẻ. Nó thèm, làm lấy mà ăn. Gà đấy,
mọi thứ đấy, không thiếu gì cả“. Bà biết bố Tính nó chúa ghét ai tạ
thế có khách để trẻ mỏ bấu sấu vào. Vả lại, các cháu nhà bà cũng
ngoan, không thèm nhạt gì cho lẵm thành ra bà cũng yên lòng. Phần
Tính, mẹ nó cũng dễ dãi, phần khác nó cũng sợ chị em mất đoàn kết.
Con mẹ cả không bao giờ dòm ngó đến công việc nhà này và nó ở tận
cuối xóm mà một tý gì ở nhà này nó cũng biết. Của đáng tội, có một
lần, cũng đến dăm bảy năm về trước, nhà có khách mà chả có lấy một
hột gạo. Con mẹ Tính chạy ngược, chạy xuôi vay gạo, ”mượn“ gà về
làm cơm. Người ta ăn xong, còn thừa dăm miếng cổ cánh, bà phải co
kéo gắt gỏng mãi con mẹ mới chịu vào bếp húp nửa bát canh bí, và
nhai cái đầu và cánh gà. Chỉ có thế, mấy ngày sau ra đồng chị cả đã
chì chiết ”Khách ba, chủ nhà bẩy. Thời buổi này ông bà cứ chịu khó
vay mượn, có một vài người khách cũng làm vài ba con gà. Khách ăn
hương ăn hoa vài ba miếng còn bao nhiêu con dâu con giai đánh cho
kỹ thì tôi cũng xăm xắn công việc của ông bà được bằng thím Tính“.
Từ ngày ấy, ngày tư ngày Tết, có khách có bạn, thừa cái gì đổ đi
thì đổ con mẹ Tính không hề nhúng lấy một đầu đũa. Được cái con mẹ
nó cũng tốt nhịn thành ra chị em cũng vui vẻ. Tính về nhà lúc sắp
bưng mâm ra. Hiểu nghe tiếp líp xe đạp vào sân liền chạy ra: ”Anh
Tính hả“, Tính quẳng chiếc xe đạp ngả vào liếp ôm chầm lấy Hiểu. Họ
đã thư từ cho nhau hằng năm nay. Cả hai người đều gặp nhau ở tình
yêu thương thằng Sài, một thằng bé đã làm cho bất cứ người thân
thiết nào cũng vừa thấy tự hào về nó vừa thấy ân hận về mình. Vồ
vập nhau, tranh nhau nói đến những vất vả, những may mắn để có cuộc
gặp gỡ này xong, Tính cầm đèn xuống nhà bếp soi vào mâm cơm. Hai
đĩa thịt gà xếp ngửa ở đĩa khác rồi ụp lại phẳng phiu, vàng ngậy
một màu da, trông như con gà không hề có xương. Một đĩa xu hào, đĩa
miến xào, hai bát canh cũng miến và xu hào. Một bát muối tiết dầm
chanh, ớt, hồ tiêu. Đĩa bát, mâm đũa, bình rượu, mỗi lòng bát một
tờ giấy... Tất cả những thứ này anh biết có sự ”bổ sung“ và hướng
dẫn cách làm, cách bày biện của vợ anh. Anh gật gù hài lòng: ”Thế
này được rồi. Tốt lắm. Bê lên đi“. Nói xong, anh đưa đèn cho mẹ
cầm, tự tay mình bê mâm cơm. Đến cửa anh đã nói một thôi, một hồi:
”Thôi mời thầy, Mời anh Hiểu, Sài vào đi em. A bác cả đây rồi. Bác
vào ăn cơm luôn. Thôi nay lỡ ta ăn tạm. May quá, tôi vừa ở dưới xã
về thì chú em nó vào báo, không kịp thay cả cái áo, báo cáo anh
Hiểu, năm nay toàn huyện tôi được mùa chưa từng thấy. Bình quân 37
phẩy năm cân thóc một đầu người. Ngay như ngoại bối trồng đay trồng
đậu tương trồng mía bán cho nhà nước, ăn gạo ”bông“ cũng bình quân
mười hai, mười ba cân đầu người. Khối nhà hiện nay còn dăm tạ gạo.
Ngô, khoai lang, dong diềng ngày trước là thức ăn chính của người,
có khi một bữa không đủ, nay dùng để chăn nuôi. Nào ta bắt đầu đi.
Mời thầy, mời anh. Bác cả để chân lên cho đàng hoàng. Cái rượu
thuốc này chú em nó xẻ gỗ trên rừng về cho một bộ tắc kè, tôi lại
ngâm với ba cân thục địa. Báo cáo anh, huyện tôi năm nay có xã thu
hàng tấn thục địa. Nào mời anh, tự nhiên đi. Năm nay huyện tôi
tuyển quân gấp ba lần của số quân từ mười năm nay cộng lại. Quân đi
nhiều, đời sống bà con hậu phương no ấm, không còn gì phấn khởi cho
bằng. Bác cả với hộ em cái đóm. Anh Hiểu về đây cứ coi các cụ và
anh chúng tôi như người nhà nhé. Sài ăn đi em. Kỳ này nếu em thấy
cần thiết thì mang xe đạp đi...
Dường như cả bữa cơm anh chỉ ngồi nói và tiếp cho khách cho bố. Ăn
cơm xong chỉ còn anh và Hiểu ngồi nói chuyện. Ông đồ và anh cả đều
ngủ gật, nhưng vẫn phải ngồi ở tràng kỉ để ”tiếp khách“. Mãi khi
thấy câu chuyện chỉ cần hai người với nhau Tính mới giục bố và anh
đi ngủ. Cả hai như được ”giải phóng“, ”xin phép bác ngồi chơi“...
Hiểu nói cho Tính nghe những lý do Sài chưa được kết nạp. Đã hơn
một năm xem xét rồi vẫn còn thấy phức tạp. ”Vấn đề lịch sử“ biết
làm thế nào. Tất cả những người có trách nhiệm của chi bộ, của liên
chi đều than vãn, đều tiếc, đều thấy quý mến Sài. Nghĩa là từ chính
uỷ Đỗ Mạnh trước đây cho đến anh em cùng một bộ phận đều yêu mến
Sài, một tình yêu không nhưng không giảm bớt mà càng ngày càng tăng
lên, càng thấy sức chịu đựng của nó là ghê gớm. Tất cả những cái đó
làm cho Tính yên tâm về khả năng phấn đấu của em mình. Anh cũng như
Hiểu đều cảm thấy chắc chắn trước sau thằng Sài sẽ và Đảng, sẽ làm
được mọi việc. Khi Hiểu nó với anh cái tin Sài ”đi B“, Tính thấy
bàng hoàng. Khắp người anh nóng lên, choáng váng. Anh luôn luôn
khát vọng những người thân thiết của mình có mặt ở những nơi nguy
hiểm. Em anh là người đầu tiên của xã này đi Bê, cái nơi còn chứa
đầy bí mật của những xa cách và hy sinh nhưng đầy niềm kiêu hãnh,
nó thực sự thiêng liêng như người anh hùng ra trận. Anh viết thư
đầy lời lẽ trang trọng ”kín kín hở hở“ cho người đem xuống tỉnh tìm
ông Hà. Anh tìm mua đồng hồ Polzốt, mua thêm pin, mua thuốc bổ, mua
sâm củ, sâm viên... Tất cả những thứ nó cần, nó muốn hoặc nghe
phong phanh ở chiến trường cần phải có cái gì, anh sắm cái đó hoàn
hảo cho em mình. Hàng chục bạn bè chạy vạy mua sắm cấp tốc giúp
anh. Nếu cần phải dỡ nhà mà sắm sửa cho nó anh cũng làm.
Năm đêm ở nhà, Sài toàn nằm chung với Hiểu. Không ai giục giã săn
đuổi gì anh phải đi ngủ với vợ. Ông bà đồ phần thấy mình ít còn tác
dụng, phần đã thoả mãn về thằng cháu giai khoẻ mạnh giống bố như
lột. Dù nó có đi đâu (ông bà và cả nhà chưa hề biết chuyện Sài đi
B) thì ông bà cũng yên tâm ”Thằng bố con mẹ mày thế nào kệ xác.
Chauy ông, cháu bà) đếch cần đứa nào“. Cái hạnh phúc Tuyết đã ”vồ“
được cũng có phần nào làm cô yên tâm. Nhưng Tuyết lúc nào cũng thấy
hao háo thèm thuồng, thèm cả từ câu quát mắng, thèm một quả đấm,
một cái tát... Những cái ấy là tục tằn, thô lỗ vẫn là được tiếng là
cô có chồng, chồng đánh, chồng chửi, chồng giận hờn, hắt hủi. Đằng
này, có chồng cũng như không. Hai người gặp nhau như là gỗ xếp vào
đá không bao giờ nhếch mép nói lấy nửa câu trông thấy mình như
trông thấy một con hủi anh ấy phải né người quay đi lối khác. Có
lúc chỉ có anh ấy ở ”nhà trên“ Tuyết ở ”nhà dưới“ cô bế con lên bảo
nó gọi ”ố ố“. Anh ấy vội vàng chạy ra cửa như có người đuổi. Ra tận
nhà anh cả sai các cháu vào bế em ra đấy chơi với bố. Không bao giờ
anh ấy đón con từ tay Tuyết. Cơ cực là thế, tủi nhục là thế, Tuyết
đành chịu. Cô biết lần này anh ấy về, mọi áp lực để giúp cô được
yêu thương hình như không có nữa. Anh Hiểu cũng hỏi han chuyện trò
vui vẻ với cô nhưng tịnh không đả động gì đến chuyện vợ chồng ăn ở
với nhau ra sao? Đơn vị sẽ giúp đỡ anh Sài như thế nào? Còn anh
Tính, cũng không nhắc nhở gì em trai và anh có vẻ xa lánh bực bội
Tuyết. Hay là đã có chuyện gì? Đêm nào cũng phải nghĩ một mình, ôm
con khóc mà nghĩ. Cuối cùng, cô cũng bất cần với cái lý của bố và
anh trai cô đã dặn: ”Nhà nó có năm đầu, sáu tay cũng không bỏ được
mày. Cả lão Hà và thằng Tính, thằng Sài có muốn về đuổi gà thì cứ
giỏi bỏ mày đi. Thách cả lò nhà nó đấy“.
Sau năm ngày ở nhà, hôm ra đi, cả chú Hà từ tỉnh về, cả bạn bè của
Tính ở huyện và uỷ ban, cả bao bạn bè thân thiết và gia đình tiễn
Sài lên đường. Còn những mười lăm ngày phép nữa anh mới lên đường
đến nơi tập trung quân. Hiểu biết Sài không muốn ở nhà lâu. Anh
định những ngày còn lại Sài ở nhà mình. Bằng sự yêu mến chăm lo của
bố mẹ, của vợ, Hiểu hy vọng những ngày ở quê anh Sài sẽ khuây khoả.
Sài cũng chỉ ở đấy ba ngày. Anh đòi Hiểu về Hà nội: ”Thôi đừng ở
nhà ai, mất tự do anh ạ“. Sài giao hẹn, Hiểu lại chiều. Họ vào ở
trong trạm 66. Ngày ngày Hiểu đi đặt mua sắm một số dụng cụ câu lạc
bộ, đi lĩnh sách giáo khoa và nằm đọc sách. Sài đi tàu điện lên Cầu
giấy rồi lững thững đi bộ về phía Mai Dịch. Anh cứ đi, không vào
nhà ai, không mua bán gì. Cả bốn ngày trời đều lên phía ấy và cũng
đều không để làm gì. Chiều ngày thứ tư ăn cơm xong Sài mới rủ Hiểu:
”Anh lên Cầu Giấy với em đi“ Hiểu làm như không biết gì hỏi lại:
”Để làm gì?“- ”Anh có biết chỗ Hương ở không?“- ”Có“-”Đi với em đến
đấy“. Chưa hề có ý định đến thăm Hương dịp này nên Hiểu không biết
sẽ ăn nói thế nào khi có cả Sài và vợ chồng cô ta. Mà để làm gì?
Nếu thái độ của Hương như lá thư cuối cùng gửi cho anh trước khi
lấy chồng? Nó khổ sở ở chỗ là Sài chưa hề biết đến lá thư đó. Tất
cả những điều khó xử ấy anh không thể nói ra. Còn Sài chỉ cần nhìn
thấy Hương một lần trước khi rời khỏi miền Bắc là như đã thấy tất
cả thành thị, cả ruộng đồng làng xóm, cả bãi bồi ngập lụt và làng
Bái Ninh giàu có, cả những ngày hè ồn ào như bão của biển và cái
trung đoàn 25 vừa khắc nghiệt vừa yêu thương da diết ghi dấu cả một
thời tràn đầy sức lực và những khát khao trong im lặng đau đớn của
mình.
Hai người dắt nhau đi từ năm giờ chiều nhưng mãi hơn bảy giờ tối họ
mới đến nơi. Vợ chồng Hương ở ngay gian đầu của cơ quan. Khu nhà
xây lớp lá giữa vườn chuối um tùm cạnh một làng ngoại thành. Trông
nó ẩm thấp và ngổn ngang những gỗ, lá đã ủi mọt. ít nhất cái nguyên
liệu thừa thãi này đã để hàng năm ở ngoài vườn chuối quanh dãy nhà
chừng mười hai gian và một nhà ngang kiểu như thước thợ, dáng chừng
là nhà bếp. Hiểu chưa biết sẽ nên thế nào khi được chỉ đích xác vào
gian phòng của Hương. Sài thì thào: ”Hay là anh ở ngoài này em vào
trước“- ”Thế cũng được“- ”Hay là anh cùng vào với em!“- Nghe giọng
Sài đã lạc đi Hiểu biết là cu cậu đang run nhưng anh không thay đổi
ý định. Sài sửa quần áo, lấy năm đầu ngón tay cào cào mái tóc rối
bù dưới lòng chiếc mũ cứng. Hương đang ngồi tựa vào thành giường,
hơi cúi, đọc mê mải một quyển sách bìa cứng dày cộp, chốc chốc cô
ngẩng mặt lẩm nhẩm rồi ghi vào quyển sổ con ở bên cạnh. Qua khe cửa
khép hờ nhìn vào ánh điện sáng loá trong phòng, một nửa khuôn mặt
cô lại bị che khuất bởi mái tóc uốn ngắn, nhưng Sài vẫn thấy đôi
mắt rất long lanh lúc nào cũng như cười, cái miệng với hàm răng rất
trắng và đều đặn, khi cười dù sảng khoái đến đâu đôi môi tươi mòng
mọng không bao giờ để lộ đến chân răng khiến không cho ai cái quyền
được quên cái miệng cười ấy dù chỉ được thấy một lần. Hương có hơi
gầy đi, nhưng lại càng xinh ra. Chao ơi, sao đêm nay đẹp thế này.
Phía trong cái màn gió buông ở sát tường kia có phải là chồng em
không? Anh ta là ai mà phúc đức, may mắn đến thế! Sài muốn đẩy tung
cửa vào nhà ôm chầm lấy Hương, hai người rón rén dắt tay nhau nhẹ
nhàng khép cửa lại, đi với nhau suốt đêm nay, cả đêm nay anh sẽ gục
đầu vào lòng em, chỉ cần một đêm sống với nhau là có tất cả, rồi từ
ngày mai trở đi toàn có đi bộ, nhịn đói, sốt rét và chỉ có bom đạn,
nào đã thấm gì với sự sung sướng đêm nay em dành cho anh! Mồ hôi
anh đã toá ra ướt đầm áo, anh thở gằn và bấu tay vào bờ tường.
Dường như Hương đã có cảm giác có người đứng ngoài sân, chốc chốc
cô lại quay ra. Khi cô đứng dậy thì Sài vội vã đi bằng mũi giầy
chạy ra chỗ Hiểu. Hương bê ca nước ra ngồi vào chỗ cũ, cắm cúi đọc
như cũ.Hiểu suýt bật cười vì cái cảnh luống cuống tội nghiệp của
Sài. Đã biết tất cả, anh vẫn hỏi: ”Hương đang làm gì?“- ”Có lẽ đang
học ngoại ngữ“- ”Một mình à?“- ”Có lẽ chòng nằm giường trong“-
”Thôi về nhỉ?“- ”Khoan đã anh!“- ”Làm gì?“- ”Có lẽ anh vào nhà một
tý. Em ra ngoài kia chờ anh“- ”Theo mình thì không nên“. Nói xong
câu đó Hiểu mới ra ý định của Sài. Cậu ta muốn xem cô nhắc nhở
những gì, dò hỏi Sài sống ra sao và có nhắn gửi, hẹn hò gì không!
Thôi thì lần cuối cùng chiều nó. Khuya khoắt thế này vào thật bất
tiện. Nhưng bản thân mình việc gì phải lo, cốt được việc cho nó. Cố
không để nó phải ân hận điều gì. Sài đi thật xa ra ngoài đường
chính. Hiểu đi vào. Anh điềm tĩnh gõ cửa. Hương vẫn cầm quyển sách
trên tay, quay ra: ”Ai“? ”Xin lỗi tôi hỏi, đây có phải nhà cô Hương
không ạ?“- ”Hương nào cơ bác“- ”Hương bách khoa mới về cơ quan
này“- ”Xin lỗi, bác hỏi có việc gì ạ“- ”Tôi là Hiểu bộ đội“- ”Trời
ơi anh Hiểu, Kim ơi, anh Hiểu, Kim ơi“. Hương vứt quyển sách xuống
giường chạy ra mở cửa. Từ phía trong màn gió Kim bật dậy, xô tấm
vải chắn, hỏi không kịp để anh trả lời. Nào anh có biết em ở đây
không, nào anh Hiền có nhắn gì em? Hàng tháng nay cũng chưa nhận
được thư của anh ấy. Hương cũng vồn vã giải thích rằng từ ngày đi
học bác sỹ đến giờ chủ nhật nào Kim cũng về với cô. Rằng chồng cô
độ này phải đi thư viện, anh ấy sắp đi thi nghiên cứu sinh, rằng cô
về ở đây còn bừa bộn chưa đâu vào đâu nhưng cả hai vợ chồng cùng
chúi đầu vào học ngoại ngữ. ”Anh ấy học để đi, còn em phải đọc
nhiều tài liệu kỹ thuật và những thông tin khoa học bằng tiếng nước
ngoài. Bắt buộc phải học mới làm việc được. Rằng chủ nhật chúng em
và Kim mới nấu ăn với nhau còn ngày thường báo cơm tập thể để có
thời gian học tập. Rằng tối nay anh nghỉ ở đâu, ở lại đây với chúng
em! ”Anh ấy nhà em còn quý bạn hơn cả quý em đấy, anh đừng ngại“.
Hiểu nói anh lên khu văn công quân đội làm việc tiện qua đây sực
nhớ Hương nói ở khu này mới vào cho biết chỗ khi khác anh đến thăm
lâu. Anh nói rất nhiều chuyện vui vẻ và đều có ý nhắc nhở đến những
ngày Hương đi nghỉ hè ở bờ biển và những công việc của anh em trong
đó có Sài. Nhưng Hương không hề để ý hoặc cố lướt qua những gì có
liên quan đến người anh vừa nhắc tới. Ngay cả khi anh bảo: ”Sài đi
B rồi đấy Kim ạ“. Kim mới kêu lên ngạc nhiên và hỏi dồn dập bao
nhiêu chuyện. Hương vẫn coi như không biết đến chuyện đó, không hề
quen biết người đó. Cuối cùng Hiểu gợi ý: ”Tôi vẫn còn ”nợ“ Hương
đấy, có lẽ khi nào có điều kiện tôi sẽ trả ”nợ“- Khi nào có điều
kiện đến đây chơi với vợ chồng em lâu lâu anh nhé. Còn ”chuyện ấy“
có lẽ cũng chả cần nói nữa anh ạ. Em hiểu cả rồi!“. Hương vẫn chưa
dịu bớt nỗi căm giận. Ngay cả khi mới đến, chuyện gì cô cũng cố gán
”nhà em“ ”chúng em“ và khéo léo khen chồng, cũng muốn biểu hiện
lòng mình chưa hề nguôi ngoai, chưa thể tha thứ cho con người phụ
bạc. May mà Sài không vào đây. Nhưng người Hiểu cứ thấy ”chết“ dần
đi, nguội lạnh dần đi. Anh muốn quát lên khi gặp Sài: ”Việc quái gì
cậu phải nghĩ ngợi cho mệt xác. Hạng người như thế không đáng cho
cậu phải nhớ nhung, đau khổ“. Đến lúc thấy cậu ta anh lại không nỡ
nói, đúng ra là không dám làm việc đó. Sài vẫn lẳng lặng đi cạnh
anh, anh hiểu cậu ta rất muốn hỏi, rất muốn anh kể càng nhiều càng
tốt, càng tỉ mỉ càng tốt. Cố giết cái chết đã ở trong lòng mình anh
tươi cười: ”Vui lắm!“- ”Thế hả anh. Hương có buồn phiền gì về người
chồng mới của mình không“- ”Chắc là có nhưng có người khác ở đấy
nói ra không tiện“- ”Hương có bực em lắm không?“- ”Chắc là có!“-
”Liệu Hương có hiểu hết hoàn cảnh của em không?“ ”Có lẽ cũng không
hiểu hết đâu“. Sài im lặng, nén những hơi thở dài xong, không kìm
nổi sự im lặng: ”Hương có biết em đi xa không?“- ”Mình có nói“-
”Liệu Hương có phàn nàn gì chuyện em đi!“- ”Cô ta vẫn phục cậu là
người có ý chí“- ”Tại sao Hương lại gầy đi anh nhỉ?“- ”Phải học,
vừa làm việc, vừa tranh thủ học ngoại ngữ. Trường học ở tận giữa
nội thành“- ”Không hiểu thế nào Hương lại lên ở tận đây. Tính Hương
cũng rát tối lắm anh ạ. Lại đi học đêm hôm khuya khoắt!“- ”Thì cơ
quan người ta ở đấy mà mình lại chưa có nhà riêng“- ”Khổ, liệu anh
chồng có quan tâm gì đến chuyện đi lại của Hương không? Im lặng. ”A
anh này, em sẽ biên thư cho anh Tính em. Nhưng... sợ anh ấy lại
không ưa Hương lắm... Thôi được, em sẽ nói bằng mọi giá anh phải
giúp Hương hộ em. Nếu không giúp Hương thì coi như anh từ bỏ em
đấy. Em sẽ bảo: Anh cứ yên chí, Hương không ”làm hại“ em anh nữa
đâu mà phải lo. Em sẽ biên thư nó với anh Tính em như thế. ở nhà
anh thư từ hoặc có dịp nào lên Hà nội, anh cố về gặp anh Tính em
nói thêm vào- ”Chuyện gì kia“- ”Các cụ về tản cư nhà em hồi xưa
hiện có nhà rất rộng còn thừa hai phòng chưa có người ở. Các cụ hứa
với nhà em nếu em hoặc bạn bè thân thiết của em được đi học, đi làm
ở Hà nội không có chỗ ở, đến nhà các cụ dành cho một buồng. Anh nói
với anh Tính tìm mọi cách, mà cũng chả cần tìm, chỉ cần anh ấy
thương em“- ”Anh Tính có thể sẻ người cho cậu anh ấy đâu có tiếc“
”Em biết thế. Anh phải nói hộ em là nếu không làm được việc này cho
Hương thì không bao giờ cần làm bất cứ việc gì cho em nữa“- ”Thôi
được, cậu cứ yên tâm ra đi. ở nhà mình sẽ bàn với anh Tính, tuỳ
tình hình cụ thể sẽ làm theo ý của Sài“- ”Tại sao lại tuỳ ạ“- ”Ngộ
nhỡ cô ta kiếm được nhà khác thuận lợi hơn thì sao?“- ”Vâng! Như
thế cũng được. Nhưng nhất thiết phải tạo điều kiện cho Hương đi học
đỡ trở ngại. Có khi vì ngại tối, sợ ma, sợ đường vắng mà cô ấy bỏ
học“.
Có thể hàng chục năm sau giữa bom đạn cực khổ của người lính anh
vẫn hăm hở bất chấp hết thảy vì niềm khoan khoái của đêm nay. Hiểu
im lặng đi bên cạnh sự sung sướng của người sắp sửa ra đi tràn đầy
niềm tin và khát vọng như là sự mô tả của những bài ghi nhanh trên
báo chí, đài phát thanh lúc bấy giờ nói rằng người chiến sĩ ra mặt
trận như đi xem hội! Anh biết rằng điều đó cũng rất thật và rất cần
như thế.
Không có ai dại dột đi nuối tiếc cái cũ khi đang tràn trề với hạnh
phúc mới. Cũng chẳng việc gì cứ phải gào lên phô trương tất cả sự
đầy đủ tốt đẹp nếu quả thực nó có như thế. Bởi vì, nó giống như kẻ
có miếng ăn ngon không bao giờ khoe khoang chiềng bầy ra trước mặt
những người đang đói. Hương chán người chồng của mình ngay từ khi
chưa cưới. Có thể nói như thế nếu ai đã từng học ở Bách Khoa những
năm ấy. Hàng ”trung đội“ bị cô ”bắn“ ra vừa đủ cự ly làm thầy, làm
bạn một cách vui vẻ, hoặc ít ra cũng phải cố mà vui vẻ để chứng tỏ
mình không phải là kẻ thất bại. Trong những người ”cùng thời“ ấy có
thầy Thịnh, chồng cô bây giờ. Chẳng những không bị ”bắn“ Thịnh còn
được vồ vập. Thịnh chịu khó học hành và làm việc. Anh vào loại cán
bộ giảng dạy lâu năm của trường. Không tài hoa cũng chẳng kém cỏi,
anh là con người ”đều đều“, ”nhàn nhạt“ trong tất cả mọi lĩnh vực.
Đã hơn ba mươi lăm tuổi anh chưa hề ”cùng ai“. Bọn con gái độc
miệng lúc đầu gọi là ”giám đốc“ sau chuyển thành ”tiến sĩ hấp“.
Hoặc thầm vụng một mình hoặc được gán ghép trêu trọc anh có tất cả
các ”hoa khôi“ của trường trong nhiều khóa là ”người yêu“ của mình.
Với Hương, anh có cả hai phía: thầm vụng ngẩn ngơ và sự trêu chọc
của xung quanh. Ngay chính Hương, rất nhiều lần cười nó trước bạn
bè: Mình ”đá“ anh bộ đội rồi, yêu ”tiến sĩ“ thôi. Kệ, cốt mình yêu
là được. Cô nào ”hưởng ứng“ thì tốt, mà không cũng chẳng quan trọng
gì. Anh chung thuỷ dai dẳng với ”tình yêu một mình“ không hề lay
chuyển. Anh sẵn sàng đạp xe ròng rã cả năm học theo sau một đôi
sinh viên đang yêu nhau. Kệ họ. Anh yêu cô bé thì theo. Họ vừa đi
vừa nói ríu rít ở phía trước. Anh cứ thủng thẳng đạp theo sau. Về
nhà, đợi cho cô vào hẳn phía trong cửa anh mới quay về. Cả hàng năm
không cần hỏi han, chuyện trò, không cần cả cô ta có để ý đến mình
đi phía sau hay không. Đến khi ”yêu Hương“ anh lại hăm hở mang từ
nhà mình đến cho cô bi đông nước sôi để nguội, cái ba lô bộ đội cũ
để cô đi ”cắm trại“ ở chỗ Sài đóng quân mà chẳng cần biết cô ta có
cần những thứ ấy hay không! Có lần Hương đi thực tập ở một cơ sở
cách Hà nội bốn chục cây, chủ nhật nào anh cũng đạp xe đến ”thăm“ ở
phía ngoài cổng nhà máy. Lần thì Hương ”đi vắng“ lần thì ”ốm“. Có
một hôm anh ta ”bắt được“ Hương ngay phía ngoài cổng buộc Hương
phải đứng lại nói chuyện. Biết là không đùa được nữa và cũng không
cần ý tứ, cô bảo: ”Em biết là thầy rất nhiệt tình nhưng em đã có
người yêu, thầy thông cảm“- ”Không sao, không sao, em cứ yêu đồng
chí bộ đội của em. Tôi không hề làm gì ảnh hưởng đến em. Nhưng em
cũng cho tôi cái quyền tự do của tôi, tôi có thể làm những gì tôi
muốn. Nếu em không muốn gặp tôi cũng không sao kia mà“. ừ thì ông
cứ làm cái việc ông muốn đi. Hương xin phép về để kệ con người tự
do ấy đứng ngoài cổng hàng giờ mới đạp xe về Hà nội. Mấy hôm sau
Hương ốm. Không biết cách nào anh ta lại mang đến cho Hương nửa cân
đường và chục quả chanh. Hương từ chối. Anh ta bảo. ”Độ này chanh
rẻ, có bảy hào một chục, Hương cứ dùng đi đừng ngại“. Hương cười
phá lên rồi nghiêm mặt nói như ra lệnh: ”Em yêu cầu thầy bỏ tất cả
những thứ này vào túi xách đi hộ em. Thầy thông cảm, giữa trưa, chị
em mệt đều muốn ngủ, thầy ngồi đây không tiện“. Anh ta theo lệnh
Hương lùi lũi xách túi ra khỏi cửa. Chị em mắng Hương ”Tệ“ nhưng cô
thấy không thể để lão ta ”nhờn“ được nữa. Nhưng ”thầy“ không hề tự
ái. Suốt mấy năm trời chân thành và ngoan ngoãn ông ta không hề đòi
hỏi, không hề mong đợi ở Hương một điều gì. Còn Hương, vì không mấy
ai biết rõ hoàn cảnh của Sài nên luôn luôn đem đến cho cô ”anh bộ
đội đẹp trai và thông minh của mày“ làm cô bất chấp hết thẩy để giữ
gìn thiêng liêng một mối tình hiện tại thì câm lặng mà tương lai
thì mịt mùng. Chỉ biết trượt theo cái đà của những năm kỷ niệm,
những ấn tượng về một tấm lòng chân thật, đầy nỗi đắng cay và một
nghị lực phi thường chứa chất trong im lặng thăm thẳm ở con người
bề ngoài hiền lành, nhút nhát. Cô còn chờ đợi ở Sài những việc đột
ngột làm cô phải ngỡ ngàng khâm phục như sự lặng lẽ nhường chỗ học
cho cô. Lặng lẽ đi bộ đội, lại lặng lẽ vào đại học, và trở thành
sinh viên xuất sắc mà nhiều năm sau người ta còn nhắc nhở... Không
ngờ. Thật không thể ngờ cái đột ngột như sét đánh ấy lại là cái tin
anh ta đã trở lại yêu vợ rất tha thiết. Ngày hôm ấy Hương và cô bạn
cùng lớp từ nhà mình đã qua sông còn đi đò trở lại làng Hạ Vị tìm
cách gặp Tuyết. Lúc ấy Tuyết đang kiêu hãnh vác cái bụng chửa như
vác một quả bom đi đến đặt vào lồng ngực của Hương. Dù đã cố giữa
không cho bạn biết chuyện gì, mặt Hương cũng tái đi. Cô đứng chết
lặng, Tuyết đi qua một đoạn xa cô mới như tỉnh lại. Trở về trường
cô nằm li bì suốt ba ngày. ”Tiến sĩ“ lại mang cho cô mấy quả chanh.
Hai mắt cô nhìn như tên bắn vào người khiến hai chân anh run run.
Cô muốn quát ”Cút đi, đồ khốn nạn!“ Nhưng cô là người đang quyết
chí trả thù mà không có vũ khí. Tất cả những người cô có thể yêu,
có thể tạo nên hành phúc cho cô, có thể còn hơn cả Sài, trong suốt
mấy năm qua cô đều ”loại“ mà không hề vương vấn. Đến bây giờ... Kẻ
sôi sục mù quáng chỉ còn cái que gai cũng coi là vũ khí, vẫn có thể
đâm mù mắt người khác. Cô cười, tiếng cười nghe ma quái làm cho
người thầy giáo phải đi giật lùi ra phía cửa. Tiếng cười tắt lạnh
trên môi, cô hỏi: ”Thầy yêu tôi thật không?“ Người đàn ông bỗng run
rẩy quỳ xụp xuống, chắp hai tay lạy như thể cô gái đang ở trước mặt
mình đã biến thành ma quái: ”Sợ à? Nói đi. Anh có yêu tôi thật
không? Giọng Hương đã bình tĩnh trở lại. Anh ta cũng bình tĩnh trở
lại. ”Xin em đừng hỏi câu đó. Nếu được chết ngay lúc này dưới chân
em tôi cũng không ngần ngại“- ”Thôi thầy ạ, cải lương lắm. Đứng dậy
đi báo cáo tổ chức đi. Đứng dậy báo cáo tổ chức là tôi yêu anh và
chúng ta chuẩn bị cứơi!“ Tất nhiên lúc bấy giờ dù có choáng váng
đến đâu thì anh ta cũng phải đứng dậy đi làm ngay cái việc mà cô đã
ra lệnh, như chúa ban phát tình thương cho lũ con chiên. Và nửa
tháng sau cả trường rùm beng trong đám cưới rất giản dị diễn ra
trong vòng mười lăm phút tại nhà bố mẹ chú rể. Để đến bây giờ trước
mặt mọi người cô phải cố trở thành người vợ dịu dàng, hãnh diện về
người chồng biết chiều chuộng, biết lắng nghe từng cử động của vợ.
Và, cái trách nhiệm làm mẹ đã lớn dần trong cô từ ba tháng nay thì
không thể nào khác những cử chỉ, lời nói cô đã làm chứng tỏ cho
Hiểu nhận ra cái hạnh phúc tràn trề mới mẻ trong cái gia đình tưởng
như tạm bợ, hờ hững của cô.
Nếu cứ để cho Sài biết tất cả sự đối xử của Hương trong thời gian
qua có lẽ đỡ khổ hơn. Anh có thể gục ngã để không bao giờ đứng dậy
nổi như một đoạn đời tươi đẹp và đau khổ đã được chấm dứt, được ngã
ngũ để rồi những năm tháng sau thành kẻ què quặt bệnh hoạn để anh
sẽ có một lối sống, một nhân cách dù nó là cung cách lề lối của kẻ
bệnh hoạn, què quặt thì vẫn là của kẻ ấy, không chung chiêng pha
tạp. Không dám làm, không dám mất một cái gì, chỉ bằng sự yên lặng
và tránh né, sự tránh né gần như chốn chạy vừa chiều ý mọi người
vừa toại nguyện cho mình, rốt cục chẳng những không tránh né nổi,
anh lại tự giác làm cái công việc lúc ban đầu khi còn là đứa trẻ
con cố sức giãy giụa. Lớn lên càng đi xa, chuyện vợ con của anh
càng bế tắc. Bé hy vọng lúc lớn lên sẽ vượt ra khỏi roi vọt của bố
mẹ và các anh. Đi bộ đội tưởng được thăm thẳm xa vời, cô ta và gia
đình không thể tìm đến. Bây giờ lại hy vọng vào bom đạn, chết chóc
của cuộc chiến đấu ác liệt sẽ là hàng rào ngăn cách giữa anh và vợ,
giữa quá khứ và mai sau. Nhưng như thế để làm gì khi anh đã có con
và Hương đã lấy chồng? Không thể biết điều gì sẽ xảy ra trong tháng
sau, năm sau nhưng đến bây giờ thì anh không thể thay đổi, anh sẽ
đi, đi suốt cả đời mình trong gian truân, trong chết chóc, chỉ cần
để không phải làm chồng của cô Tuyết, không thể ”đội trời chung“
với cô ta. Một lần nhu nhược đã nuôi nỗi đắng cay cả đời rồi. Còn
với Hương, anh không thể trách móc, không thể đòi hỏi gì hơn những
điều Hiểu đã nói lại với anh: Hương vẫn hỏi han, vẫn lo Sài đi B
gian khổ. Chỉ cần có thế là anh có thể sung sướng trong đau khổ,
nuối tiếc và hy vọng, đôi khi cũng chẳng biết hy vọng vào đâu, hy
vọng cái gì. Nhưng vẫn cứ khắc khoải chờ đợi nó.
Nhìn cái dáng tất bật quê mùa của anh ai cũng tưởng Sài là người ăn
no vác nặng vào loại nhất nhì đại đội. Nhưng với việc rèn luyện
ngặt nghèo: ”Vai trăm cân, chân ngàn dặm“, cái nghề ”dài lưng tốn
vải“ của những năm đi học và dạy học ở trung đoàn bộ, anh trở thành
”đối tượng“ có nguy cơ phải rớt lại ngay từ đầu. Suốt tám tháng
trời tập đeo đất, đeo gạch, tập bắn súng, tập tiểu đội, trung đội
tiến công, đánh chiếm từng căn nhà trong thành phố, tập giấu mình
giữa đồng bằng, tập vượt núi, lội sông đuổi địch... Hàng mấy chục
khoa mục anh đều cắn răng để chịu đựng, cắn răng lại để đạt tới mục
tiêu: đi ”B“. Cái khó nhất của Sài là sức khoẻ, sức chịu đựng dẻo
dai của cơ thể. Phương châm của anh vẫn chỉ là: cắn răng mà chịu.
Hành quân, hai chân phồng như phải bỏng. Khi những ”bọc nước“ vỡ
ra, hai gót và xung quanh bàn chân tuột hết một lượt da rồi lại đến
lượt khác, máu tứa ra như cây sung vạc vỏ ứa nhựa. Anh vẫn nhắm
mắt, nghiến răng lại chịu đau để không bị rớt lại. Khoác sọt đất ba
bốn chục cân trên vai đi cả ngày, cả đêm có lúc cả hai chân run,
mắt hoa, đầu óc quay cuồng choáng váng, ngã dúi xuống bờ ruộng,
thấy vẫn có thể ngồi dậy được là anh lại chống gậy đứng dậy chạy
theo đơn vị. Cả tám tháng tập và bốn tháng đi bộ ròng rã vào chiến
trường anh trở thành cán bộ trung đội tin cậy của đồng đội và cấp
trên. Chiến trường, giáp mặt với kẻ thù, cầm súng bắn trực tiếp vào
nó đã là chuyện có thực. Chỉ cách hai ki lô mét rưỡi, có chỗ chỉ
cách dăm bảy trăm mét là có thể nổ ra cuộc chiến đấu dữ dội giữa ta
và địch. Nhưng nhiệm vụ của đơn vị lần này ”giao quân cho B2“ thành
ra phải tránh địch mà đi cho tới đích. Đã hơn một năm ròng khoác
lên vai nỗi vất vả nặng nề của người lính, cái mơ ước từng ngày
thật giản dị, được một đêm nghỉ cho thoả thuê, một giấc ngủ cho
tròn đã là vô cùng hạnh phúc. Cũng không thể nghĩ ngợi gì nữa ngoài
những nhẩm đếm ước tính đã đi thêm được mấy cây số, vượt qua được
mấy ngọn núi, đêm nay, ngày mai sẽ bơi qua con sông nào, liệu còn
đủ sức lên đến doocs ”ông cụ“ không? Kiếm măng ở đâu, khu rừng nào
có nhiều rau môn thục, vượt qua bãi B52 bằng cách nào, nấu cơm làm
sao không có khói, mắc võng ở ”bãi khách“ theo kiểu nào để tháo cho
nhanh cũng là những tính toán chi li. Vì cái chết lại có thể xảy ra
ngay ở những công việc thông thường nhỏ nhặt ấy. Giữa sống chết,
người lính không có gì ngoài tình yêu thương đùm bọc của người xung
quanh mình mà người ta vẫn quen gọi là đồng đội, đồng chí. Nó không
giống như khi còn ở hậu phương lúc người ta nổi khùng định choảng
nhau mới gọi nhau bằng đồng chí. ở đây hai tiếng ấy thật sự thiêng
liêng, thật sự là sống chết, mất còn, không thể cách biệt, thù oán.
Thù oán nhau, đẩy cái chết đến cho nhau dễ dàng như một phút rong
chơi và nó cũng lại dễ dàng bóc trần những thủ đoạn thâm hiểm, lúc
ấy tiếng đồng chí không thể nào che đậy nổi, bằng cách gì cũng
không thể lẩn trốn nổi sự phán xét.
*
Vượt qua sông Bạc được một đêm Sài phải nằm lại. Đã ba ngày lên cơn
sốt li bì bỏ cơm, đến chiều anh vẫn cuốn võng chống gậy ra đi. Đêm
nay anh không còn biết gì nữa. Mắt đã dại đi, da tím bầm và quai
hàm cứng ngắc không thể nuốt nổi chén sâm cô y tá vừa pha. Đợi tiêm
một loạt ba mũi thuốc xong hai chiến sĩ của đơn vị phải ở lại cùng
cô y tá, người còn lạ cuối cùng ở bãi khách khiêng Sài đến trạm
quân y binh trạm cách đấy một ngày đường. Như tất cả những người
chiến sĩ ra mặt trận lúc bấy giờ mục đích thiêng liêng và cao cả
của họ là được giết giặc lập công nhưng hai người đã phải ở lại
trạm quân y suốt sáu tháng trời. Khiêng Sài đến nơi, họ phải nuôi
quân thay cho một cô nuôi quân bị thương trên đường đi lấy nước và
một cô đang lên cơn sốt. Mới đầu do yêu cầu của trạm và không nỡ bỏ
bạn đang từng giờ không biết sống chết ra sao, về sau trạm phải di
chuyển liên miên và thương binh càng nhiều hai chiến sĩ nhận quyết
định thành quân số chính thức của binh trạm 37.
Những ngày sốt liên miên, những cơn co giật của trận sốt ác tính
tưởng không thể nào qua được, sáu tháng Sài mới ra khỏi bệnh viện.
Anh được điều làm trung đội trưởng thuộc đại đội công binh giữ ngầm
ông Thao ở phía Nam Xê Băng Hiêng. Vốn là con người sôi sục bao
nhiêu dự định, bao nhiêu khao khát phía trong cái vẻ ngoài ít nói,
đến bây giờ tính anh lại lặng lẽ như một ông già. Những mơ ước cầm
súng đánh giặc, trở thành người anh hùng như bất cứ người nào vào
Nam chiến đấu, anh bằng lòng với nhiệm vụ được giao, nói đúng ra
anh sẵn sàng nhận bất cứ nhiệm vụ gì. Điều đó hoàn toàn không phải
anh cố lên. Đã gần một năm kể từ ngày rời khỏi miền Bắc vào chiến
trường, anh chưa hề làm được việc gì. Bao nhiêu anh em đồng đội đã
khó nhọc, khốn khổ vì anh. Nếu anh làm được bất cứ việc gì như là
sự trả ơn, như để xứng đáng với họ anh cũng không nề hà. Về đến đơn
vị anh ra mặt đường ngay. Đại đội trưởng quyết định anh ở nhà nghỉ
thêm một tuần. Có một người trình độ văn hoá cao, đã từng là giáo
viên và công tác ở ban chính trị trung đoàn, đại đội trưởng chắc sẽ
có người giúp mình được nhiều việc. Trước mắt, Sài phải dạy cho anh
em lính mới người dân tộc học chữ và viết hộ mấy bản báo cáo của
đại đội. Được nghỉ thêm ít ngày Sài có khoẻ ra nhưng anh thèm rau
quá và rất muốn đi kiếm, bất kể là rau gì. Còn là lính mới anh
không thể vượt qua những núi đá và rừng cây đã bị chất độc hoá học
làm cháy khô. Chiều ý anh, ngày hôm sau đại đội trưởng cho liên lạc
dẫn Sài đi kiếm rau, kiếm măng, nấm và quả chua. Đi và về phải hai
ngày nhưng cứ mang ruốc, lương khô đủ tiêu chuẩn cho bốn ngày. Hai
anh em khoác súng, ba lô đi từ sáng sớm, khoảng quá chiều đã đến
khu rừng thưa, cao ráo, phần nhiều là lim, săng lẻ và cây bông tàu
tròn thẳng tuồn tuột, vỏ trắng nhợ nhưng lại rắn đinh. Cậu liên lạc
tên là Thêm. Cậu ta đi thoăn thoắt, nói thoăn thoắt dường như khu
rừng này là vườn của nhà cậu ta. Chỗ nào có rau, con suối ở dưới
chân chảy đi đâu, chỗ nào sẽ có nấm mới? Anh có thích uống mật ong
không? Thôi để đến mai, lúc nào uống hết nước có bi đông đựng mật
ong ta mới ”dứt điểm“. Cứ tưởng cậu ta đã ở vùng này nhiều, sau mới
biết Thêm cũng chỉ đến đây lần đầu. Vừa tinh nhanh, vừa liều lĩnh,
đi đến bất cứ chỗ nào Thêm cũng không bỏ qua một chi tiết nhỏ. Chỉ
cần vài tiếng buổi chiều hai người đã lấy được một ba lô măng nứa
và một bọc phải đến hai cân mộc nhĩ. Chuyến đi có thể gọi là vô
cùng thắng lợi nếu không có trận mưa đêm mà họ không thể ngờ tới.
Thực ra cơn mưa rừng đã có sự chuẩn bị từ lúc chín giờ sáng. Họ đi
trong oi nồng ướt dầm hai lần áo. Lúc chập tối rừng cũng xào xạc
sáng lên màu vàng nhợ. Nhưng cả ngày đi hăm hở, lúc gặp khu rừng
còn là nguyên sơ, lại chăm chú tìm kiếm rau, măng, ngay những điều
cần làm thân của hai người họ cũng không kịp nghĩ đến thì còn để ý
gì đến nắng, gió. Chiều tối, ngồi nhai lương khô, chiêu nước xong,
trèo lên võng là cả hai đều ngủ không hề biết trời đất xoay chuyển
ra sao. Mãi đến gần sáng nước dềnh lên, thấy lạnh ở lưng, Sài sờ
tay đã thấy nước òng ọc ở trong võng. Anh quay sang lay gọi Thêm.
Hai người bấm đền. Nhìn xung quanh đã trắng đầy nước và một dòng
chảy cách họ vài chục mét nước đang cuồn cuộn lao đi. Tiếng nước ào
ạt át cả tiếng mưa rơi lộp bộp trên mái tăng. Họ nhảy ào xuống nước
khoác súng, ba lô, cởi tăng chùm lên người rồi cuốn màn, võng tìm
đường kéo nhau lên núi. Leo được đến chỗ đất bằng, từ đàu đến chân
nhây nhớt bùn, võng màn, quần áo đều ướt và bẩn. Cũng đã ngấm lạnh,
không thể mắc võng nằm, họ kiếm củi gây lửa sưởi. Không có gì chật
vật khốn khổ bằng gây lửa giữa trời đang mưa mà củi lại sũng nước.
Chật vật mãi, xoay sở hì hụi mãi hai anh em cũng nhóm được đốnglửa
mù mịt khói. Khói từ lúc trời chưa sáng và ngay cả khi sáng ra máy
bay cũng chưa thể phát hiện được khói. Họ không nghĩ ra việc giấu
khói giữa mưa gió, rét mướt ở khu rừng hoang vắng. Có nghĩ tới, họ
cũng sẽ tin là máy bay không thể ngửi thấy mùi khói để mới tờ mờ
sáng một tốp phản lực đã ném bom quanh đống lửa. Bom nổ từng loạt
đột ngột, chỉ cách chỗ họ ngồi chừng mươi lăm mét. Hai mắt tối sầm
Sài nằm vào khe của một múi cây chò đồ sộ. Có lẽ nhờ nó mà mảnh bom
găm hết vào cây, dù chưa nằm kịp Sài cũng không việc gì. Thêm ngồi
chếch ra ngoài một chút bị ngay từ loạt đầu tiên. Dứt loạt cuối
cùng Sài nhổm dậy, vẫn thấy Thêm nằm phủ phục không động đậy. Anh
vội vã nhảy qua đống lửa, ôm chầm lấy bạn. Một mảnh bom đã vạc cả
mảng quần và mảng thịt gần bằng bàn tay ở phía mông bên trái của
Thêm. Phía đùi bên ấy cũng bị ba miếng nữa. Máu chảy thành vũng ở
phía dưới. Cuống cuồng chùi hai tay vào áo, vào màn, Sài gỡ cả hai
cuộn băng cá nhân băng cho bạn. Chỉ đủ băng được ba vết thương. Vết
còn lại anh lấy gói thuốc lào đã sũng nước ở túi áo ngực của mình
đắp vào đấy rồi cởi chiếc áo lót cộc tay xé buộc. Băng bó xong cho
Thêm, sờ ngực bạn vẫn thấy thở anh mới hoàn hồn về những gì vừa xảy
ra. Nhưng chính lúc này nghe tiếng nước chảy ầm ầm anh tưởng như nó
đang thúc vào ruột gan mình. Nước bao quanh dưới chân, đi bằng
đường nào? Bằng cách gì để đưa Thêm về? Máu ra nhiều liệu Thêm có
chịu đựng nổi đến khi về đến đơn vị và đi viện không? Đây là đâu,
máy bay địch còn đánh nữa hay thôi. Tại sao nó lại đánh khu đồi này
sớm! Để làm gì. Sự nguy hiểm nào sẽ xảy ra trong ngày hôm nay và có
thể ngày mai, ngày kia? Anh không dám nghĩ tiếp. Anh lấy áo, lấy
màn lau sạch tấm tăng trải trên hai chiếc màn ở hõm cây rồi bê bạn
đặt nằm vào đấy. Chiếc tăng còn lại cũng được lau sạch căng phía
trên che mưa. Thêm vẫn rên nho nhỏ. Nó cố nén đau, chỉ rên nhỏ để
mình khỏi sốt ruột và đỡ hoảng. Anh dặn bạn nằm im cho đỡ mệt để
mình quanh quẩn xem tình hình thế nào còn liệu. Những câu anh lẩm
bẩm ấy không hiểu Thêm có nghe thấy không. Cậu ta vẫn nằm im. Như
thể nói cốt để lệnh cho mình nên anh vẫn lặng lẽ xách súng đi. Được
dăm bước Thêm kêu ”nước“, cho em hớp nước!“ Nghe tiếng ”em“ tội
nghiệp quá. Khắp người Sài như nhủn ra. Anh quay lại lấy bi đông
nước chiết một ít sang chiếc bi đông không, như kiểu chiết rượu.
Anh giấu bi đông đầy nước sang ngách cây bên kia rồi đem chiếc bi
đông có chừng hơn chén nước đổ vào miệng cho bạn. Hai bàn tay Thêm
bỗng vươn ra bấu lấy bi đông, giữ chặt cái miệng nó vào miệng mình
như thể sợ Sài giằng ra mất. Chỉ nuốt ực hai lần đã hết chỗ nước
Sài đưa. Thêm mút mút miệng bi đông rồi liếm cả ra xung quanh. Nước
mắt Sài ứa ra, nhưng không thể để Thêm uống cho đã cơn khát được.
Tay vẫn giữ chiếc bi đông giốc xuống miệng bạn anh lẩm bẩm như van
lạy nó. Trong tiềm thức của nó, Thêm cũng biết nguy cơ của việc
uống nhiều nước lúc này. Nó chỉ liếm miệng chiếc bi đông cho đến
khi lưỡi và môi khô đi, nó nằm lả thiếp như người ngủ và bật lên
tiếng rên nho nhỏ. Sài xách súng chạy đi các sườn đồi um tùm cây
gai. Những tầng lá mục dưới chân phùng phìu như một chiếc đệm mút,
mỗi bước đi người lại thấp xuống. Bốn xung quanh nước vẫn cuồn cuộn
lao sầm sập, đâm vào cá mỏm đá bắn tung toé để rồi đổ xuống ầm ầm
nghe như thúc vào lòng núi. Chạy cuống cuồng đến đứt cả hơi vẫn
chưa thể tìm thấy dấu hiệu của lối đi. Sự đe doạ về vết thương của
Thêm mỗi lúc lại như chẹn lấy hơi thở của Sài làm anh không thể
bước tiếp, anh ngồi sụp xuống một hòn đá, úp mặt vào cái vật cứng
lạnh ấy, như muốn thỉu đi. Chừng vài phút sau anh quyết định phải
bắn súng cấp cứu. May ra quanh đây có đơn vị trú quân hoặc có ai đó
đi kiếm rau, lấy gạo! Không buồn nhấc súng lên, anh tì vào đá lên
quy lát. Hơi nghếch nòng lên bắn liền hai điểm xạ. Cả núi rừng ầm
ào giây lát theo đường đạn bay. Anh lại gục xuống báng súng. Vẫn
không thể nằm thiếp đi theo ý muốn, anh vùng dậy cầm súng giơ lên
chừng mười lăm độ phía trước thấp thoáng hai bóng người đang lội
qua bên kia. Nhìn bộ quần áo rằn ri anh chắc chắn là hai tên lính
nguỵ! Thì ra đêm qua chúng cùng ngủ chung một quả đồi với Sài và
Thêm. Chính sáng nay nó gọi máy bay đến bỏ bom chứ không thể ai
khác. Sài đứng dậy, tỳ súng vào một chạc cây lựa theo khe rừng anh
bắn thêm hai loạt nữa. Cả hai tên giặc đều đã sang bờ bên kia, men
theo sườn núi chạy về phía trái. Không trông thấy chúng, anh vẫn
quay súng bắn về phía đó một điểm xạ dài đến dăm viên. Biết mình
không còn đủ sức truy kích chúng, bắn cốt đuổi nó đi để mình có
đường chạy. Nó đã dò giúp mình lối sang bên kia mà anh đi tìm dòng
suối phồng lên sôi sục từ sáng đến giờ không biết chỗ nào có thể
sang được. Vượt qua lối ấy và lại đi theo hướng chúng chạy, như là
đùa với cái chết, nhưng bắt buộc phải đi theo hướng nước chảy mới
có thể tới đường được. Nhẩm tính xong anh chạy về lay gọi bạn. Cơn
khát vẫn đang hoành hành Thêm. Anh lấy bi đông nước đổ cho Thêm hai
hớp rồi nâng lên. Thêm liếm liếm khoé môi nhưng không lấy thay giữ
bi đông lại. Sài lấy chiếc võng trong ba lô buộc hai đầu vào với
nhau, khoác chéo qua vai, một tay giữ vào vai Sài một tay Thêm
chống gậy, cái chân bị thương đặt trên võng. Hơi nhũng nhẵng khó đi
nhưng với sức lực của Sài không thể có cách nào khác hơn để vượt
khỏi khu rừng này. Hai người dò dẫm xuống núi, dò dẫm như người mù
lội qua suối. Đặt đầu gậy xuống trước, dò dò không thấy bị hẫng,
Sài nhích chân đi. Nhích một chân làm trụ để khỏi lạng rồi nhích
chân thứ hai. Đồng thời với anh, chân Thêm và gậy của cậu ta cùng
nhích đi. Nước đã rút xuống dưới thắt lưng nhưng sóng chao ướt cả
áo, vết thương của Thêm cũng bị nước ngấm vào. Cả hai đều không ai
để ý đến chuyện đó. Đến bờ, vẫn phải đi nặng nhọc, dè dặt, mỗi bước
chân đặt xuống nghe phì phọp trong những chiếc giầy õng nước. Đêm
nay nếu không tìm thấy đường mòn, không gặp đơn vị nào qua đây thì
hai tên không rõ biệt kích hay thám báo có tha cho các anh không?
Nguy hiểm đè nặng vai anh, cái chết của bạn và của chính mình có
thể xảy ra bất cứ lúc nào! Anh không dám dừng lại. Nhưng Thêm thì
không thể chịu đựng nổi những cơn đau, cơn khát. Lên cách bờ chừng
nửa giờ Thêm đã buông thõng cây gậy trong tay, cả trọng lượng của
người cậu đổ theo từng bước run lẩy bẩy của Sài. Đi thêm được nửa
giờ nữa Thêm bỗng thở hồng hộc, ẩy Sài ngã dúi đi, còn mình cũng
ngã lăn ra, miệng há hốc: ”Nước, nước... ước. Giời... ời...
ước...“. Sài cố chống tay ngồi dậy mở bi đông nước đổ vào miệng cho
Thêm. Lần này cái sức của tay Thêm mạnh hơn cả Sài. Cậu ta ghì chặt
lấy bi đông. Dòng nước chảy ồng ộc vào miệng ứa ra hai bên, ràn
xuống ướt đẫm cổ áo. Sài để im chừng mười giây rồi dùng sức bẻ bi
đông nằm ngang và giật khỏi tay Thêm. Bị hẫng Thêm chửi tục rồi
nhìn Sài trừng trừng bằng đôi mắt đầy vẻ căm thù. Sài không dám
nhìn vào sự khổ sở tội nghiệp hiện lên mặt bạn, anh quay đi xoáy
nắp bi đông cho thật chặt lại. Ngồi lặng lẽ cởi băng vắt kiệt nước
rồi băng lại cho Thêm, Sài hoảng hốt thấy máu ở đùi Thêm vẫn chảy
ra ri rỉ. Không có chỗ để ”ga rô“ không có thuốc, có băng. Cũng
không biết tìm thứ lá gì đắp. Nhìn những giọt máu cứ ứa ra loang đỏ
ở đùi bạn anh không thể biết mình phải làm gì ngoài việc phải nhanh
chóng tìm đường về đơn vị. Lúc này mặt trời đã đứng bóng. Ngoài
những tiếng ồn ào của suối, không thấy một động tĩnh gì. Vắng lặng
quá. Mỗi bước đi Sài có cảm giác hai tên địch buổi sáng như hai con
hổ ở một hang hốc, một mỏm đá, một bụi gai góc um tùm nào đấy, sẵn
sàng nhẩy ra vồ lấy hai con người yếu đuối không thể chống đỡ này.
Bao nhiêu tâm trí, sức lực đều dồn cả vào việc luồn lách, chống,
bám vượt qua những mỏm đá, những bụi gai, có chỗ phải lội hẳn xuống
suối mới đi được. Phải cố sức trông từng bước. Bước này qua được là
chỗ tựa cho sức lực để cố lên bước nữa. Bất chấp gai cào, bất chấp
đầu đập vào cây, vào đá, bất chấp đầu mình và chân tay như rời ra
không liên quan gì với nhau, bất chấp cả đói và mồ hôi chảy ròng
ròng như tắm. Nửa là cõng, nửa là kéo bạn đang nén hết mức cơn đau
để theo mình. Rừng đã khép lại. Thêm vẫn ngoẹo đầu vào vai anh yên
lặng. Chắc là Thêm ngủ thiếp đi. Gặp một tảng đá phẳng phiu to bằng
cả gian nhà. Chỉ cao đến ngang đầu gối mà Sài không đủ sức bước
lên. Anh nằm gục xuống lấy sức. Nhưng còn sức đâu nữa mà lấy. Tất
cả những cái cần cho một cơ thể sống đã mất đi. Anh nằm mê mệt
không còn biết gì kể cả bom nổ hất người bay đi, lúc rơi xuống chỗ
nào hoạ may anh mới tỉnh ra được.
Nằm im được một lúc, sự tĩnh lặng gọi cả cơn đau cơn khát cháy
người làm Thêm không thể nén nổi tiếng thở và tiếng kêu. Kêu mãi
vẫn không thấy Sài động đậy. Có cảm giác Sài đang ngủ, Thêm chống
tay rời khỏi lưng Sài, kéo lê cái chân bị thương theo hai bàn tay
bò. Đêm mù mịt không thấy gì. Tiếng nước chảy như lời kêu gọi anh
bò đến với nó. Cơn khát nổ bùng không thể nào kìm giữa dù có bất cứ
một nguyên tắc gì cũng không thể kìm giữ. Hãy chết ngay sau cái
phút được uống nước thoả thuê thì cũng còn hơn để sống một trăm năm
nữa mà đêm nay lửa của cơn khát đang đốt người mình thành than.
Thêm vẫn cố sức bò theo kiểu bò nghiêng, kéo lê cái chân bị thương
theo. Cái sức mạnh của dòng suối đã đưa anh đến bên nó. Chống hai
tay xuống phiến đá, úp mặt vào mặt nước, anh uống lấy uống để,
không kịp thở. Uống đến căng bụng vẫn chưa hết cơn thèm. Anh cứ áp
mặt mình với mạt nước mát lạnh chốc chốc lại xô lên đầu như đùa rỡn
với anh, con người đang giang hai tay, áp mình vào phiến đá và áp
khuôn mặt cháy bỏng vì cơn khát vào dòng nước suối hào phóng và vô
tình đã đem đến cho anh niềm sung sướng mãn nguyện mà cả cuộc đời
từ bé đến bây giờ chưa có một lần nào có được cái hạnh phúc lớn lao
ấy để rồi vĩnh viễn chấm dứt mọi gian khổ và hy vọng, chấm dứt cái
lý tưởng và tình yêu từ đêm nay, cái đem kể từ khi anh tiếp xúc với
chậu sành nước ấm nóng đầu tiên của bà đỡ đến giờ phút này đã là
hai mươi năm hai tháng, sáu ngày.
Không hiểu mới nửa đêm hay đã gần sáng. Không hiểu mình đang nằm ở
bãi biển hay trong gian buồng xây kín quanh năm ngày cũng như đêm!
Chỉ thấy hơi lành lạnh ở lưng. Muốn giơ tay lên nhưng không tài nào
nhấc nổi. Phải ú ớ như muốn giãy giụa, muốn vùng đạp mới mở được
mắt ra. Sài sờ lên lưng. Không có Thêm. Quờ ra xung quanh cũng
không thấy. Mồ hôi anh toá ra, hai chân muốn khuỵu xuống. Anh bấm
đèn loang loáng ra tứ phía. Chỗ nào cũng thấy um tùm đen tối, cũng
như là nơi rình rập của kẻ địch. Định cất tiếng gọi , lưỡi ríu lại
cổ họng nghẹn khô, Sài không sao cất nổi một lời, dù là nhỏ nhoi.
Sau phút choáng váng, anh lội xuống suối bấm đèn tìm bạn. Lội giật
lùi được đến đầu gối nước anh nhận ra Thêm đang giang hai tay nằm
sấp ở bờ suối. Sài mừng rỡ xô đến gọi bạn. Vừa chạm đến người Thêm,
anh đã run bắn lên. Nhìn bạn gục xuống mặt nước anh hiểu vì sao nên
nông nỗi này. Anh muốn kêu lên. Không kêu nổi. Anh muốn khóc, khóc
không ra nước mắt. Nỗi căm giận chính mình trào lên trong anh. Bất
chấp cả sợ hãi anh xốc bạn lên cổ cõng Thêm lội theo bờ suối. Lúc
bấy giờ anh chưa hề có cảm giác hoặc không còn cảm giác là bạn đã
chết, chỉ thấy có bạn trên lưng, anh thấy vững tâm hơn. Và cũng
không hiểu, mãi sau này cũng không ai giải thích được tại sao anh
lại cõng nổi người bạn đã hy sinh trên người luồn rừng, lội suối
suốt mười lăm tiếng đồng hồ. Đến con đường giao liên, anh ngã vật
ra. Hai người nằm nghiêng úp mặt vào nhau như hai người bạn tri kỷ
đang trò chuyện, tay anh ôm ngang lưng bạn, và bạn gác cái chân bị
thương qua người anh. Đến gần mới biết cả hai người lính trẻ ấy đều
như đang ngủ rất ngon lành.
*
Hương quyết định về quê viếng cụ đồ Khang, bố Sài. Một người cùng
quê học với Hương và Sài hiện cũng đang công tác tại Hà Nội đến báo
cho Hương tin đó. Hương là người đàn bà không hề yêu chồng nhưng
lại vô cùng thương con, người đàn bà ”của gia đình“ ấy thật sự đảm
đang lo toan chu đáo với chồng con, với họ hàng hai bên, với bạn
bè. Có thể nói cái hạnh phúc mà anh chồng cô, cũng giống như Tuyết,
”vồ“ được quả là vàng, là mặt trời soi sáng cuộc sống lạnh nhạt và
buồn tẻ của anh. Cô bảo với chồng: ”Hôm nay em cho các con về quê
thăm bà ngoại, tuần sau ra. ở nhà các thứ có sẵn rồi, tôm và thịt
ăn hai ngày, trứng ăn hai ngày với lạp sườn. Chủ nhật em đã gửi bác
An mua cá. Bác ấy làm và rán hộ, khi nào xong bác ấy gọi sang bê
về. Mỗi ngày chịu khó nấu hai bữa cơm nóng và luộc rau mà ăn khỏi
xót ruột“ - ”Để đến hôm khác đi cho khỏi cập rập được không?“- ”Có
gì mà cập rập“- ”Anh cũng về thăm bà một thể“- ”Thôi, không thể
thức gì cả. Lần khác“. Biết mình nói hơi quá, cô đi lại gài chiếc
cúc áo cổ và vuốt lại những nếp nhăn trên áo chồng: ”Em nói bao
nhiêu lần ăn mặc phải gọn gàng, anh toạ tệch lắm!“. Người chồng lại
đần mặt lặng lẽ tận hưởng niềm sung sướng được ban phát, để rồi lại
ngoan ngoãn câm lặng, không được bàn cãi, không được thay đổi những
quyết định của cô.
Hương bảo xích lô dừng lại ở cửa Nam mua chục hoa huệ và dăm bó
hương. Xuống ô tô chợ Vàng, hai người bạn học cũ đã chờ sẵn lai hai
mẹ con Hương. Ba cây số mới ra bến đò và từ bến về nhà Sài cũng
phải hơn một cây. Trên đoạn đường gần năm cây số ấy đã thấy những
người mang hương và nến, hoa huệ và hoa vòng từ Hà Nội về đám tang
ông cụ Đồ. Nghe người đi đường bàn tán Hương và bạn cô biết là họ
về còn kịp. ”Phải đến bốn năm giờ cơ. Đang giờ ”phòng không cao
điểm“ đã đưa làm sao được. Chao ơi, cơ man nào là người“.
Quả là đám tang của cụ đồ Khang là hiện tượng có một không hai ở
vùng này. Ngày xưa đám ma bố tổng Lợi mổ hàng trăm con lợn, trâu
bò, giã giò ăn uống rậm rịch cả hàng mười ngày giời cũng không đông
được như đám này. Cái đó có nhiều lý do. Thứ nhất, cụ đồ có nhiều
học trò ở khắp nơi, ai cũng chứng tỏ mình có hiếu với người thầy
vừa yêu thương vừa hiền lành. Với lại việc tôn sư trọng đạo vẫn là
cái đức của các cụ thời bấy giờ. Thứ hai, cụ là bố của dũng sỹ đang
chiến đấu ở trong Nam, một mình bắn rơi máy bay giặc Mỹ và bao
nhiêu công trạng khác. Báo đăng là chiến sỹ quân giải phóng quê ở
làng V, bên con sông H nhưng ai cũng biết anh Sài ấy là con trai cụ
đồ Khang. Từ trên tỉnh, trên Quân khu và những người ở đơn vị cũ
của Sài đều đến viếng cụ đồ. ”Cụ là người cha đã nuôi dạy và giáo
dục cho người con trai út của mình lập nên chiến công vẻ vang, cả
nước biết đến“, thư chia buồn của ông chủ tịch tỉnh nói thế. Thứ
ba, họ hàng đông, làng xã ai cũng kính nể đức độ của cụ ”giấy rách
phải giữ lấy lề“, đói thì ăn rau ăn cháo chứ đừng ăn trộm ăn nhặt
của ai. Hồi các em và các con còn nhỏ cụ dạy dỗ đe nẹt thế. Lớn lên
đi hoạt động, cụ lo toan, chạy vạy, theo đuổi vào tù ra tội và hầu
hạ mỗi khi có khách của con, của em, hoạ hoằn cụ chỉ nhắc một điều:
”ăn ở nên để phúc đức về sau. Chú và anh Tính làm việc gì phải nhớ
để lúc lui về vẫn có người vồ vập vị nể mình“. Cả đời cụ chỉ có một
lần ân hận là đã đuổi thằng Sài ra đồng để con suýt chết đói, chết
rét. Nỗi ân hận ấy trước khi tắt thở cụ còn gọi: ”Sài ơi, con tha
lỗi cho bố. Bố ăn ở ác với con nên lúc nhắm mắt bố không được gặp
con, Sài ơi!“. Xóm mạc ai cũng oà ra nức nở thương tiếc cụ, thương
nhớ thằng con út của cụ đang biền biệt ở tận đâu đâu, có biết đến
cái giờ phút vĩnh viễn xa rời người cha kính yêu này không?
Những lẽ ấy đã đem đến nườm nượp đông đúc sự thương tiếc, kính
trọng, sự linh thiêng của mất, còn toả ra từ đám tang cụ đồ. Nhưng
cũng còn cơ man nào là người không biết từ huyện xã nào ngơ ngác và
thậm thụt, cung kính và cười cợt, nghênh ngang và khúm núm, họ là
vô số người chưa hề biết cụ đồ là ai, cũng không phải vì lòng
ngưỡng mộ một gia đình cách mạng, một cuộc sống mẫu mực hoặc vì sự
yêu mến chân thật người em, người con của cụ.
Họ đi đám chỉ vì không đi sẽ không tiện. Thành ra không phải họ đi
đưa đám cụ đồ mà đưa đám ông Hà đã về làm bí thư huyện uỷ được nửa
năm nay và đưa đám anh Tính uỷ viên trực phụ trách nội chính của uỷ
ban hành chính huyện. Có người đến ngay từ chiều hôm kia, khi vừa
phát tang. ở ngoài đường họ đùa nghịch huyên náo, vào đến nhà họ
lặng lẽ nghiêm trang. ở ngoài đường họ còn dò la xem phong tục làng
này ra sao, vào đến nhà họ thành thạo mọi nghi lễ và làm mọi việc
tự nhiên như một người chủ. Họ phải liếc mắt xem thắp hương và khấn
vào lúc nào, đứng đâu để ông Hà hoặc Tính chứng kiến nỗi lòng đau
khổ, cung kính của họ: ”Con là Trần văn Đật phó chủ nhiệm phụ trách
chăn nuôi thôn Thượng, xã Hồng Thuỷ kính viếng lin hồn cụ Đồ sống
khôn chết thiêng chút lòng thành nhỏ mọn của con... ”Tút Tam Thanh
và chục bó hương dâng lên trước mặt anh khấn rồi quỳ sụp xuống lễ
ba lễ, đứng dậy, hai mắt đỏ hoe anh lẩy bẩy đặt lên bàn thờ chỗ đã
chồng chất hương hoa khiến Tính sau khi vái đáp lễ phải cám ơn anh
và nhận lấy tấm lòng thành cung kính ấy.
Đi quay ra Đật vẫn cúi vẻ đau đớn nhưng trong bụng đã có thể chắc
chắn về cái đơn xin hai nghìn ngói đang nằm ở chỗ Tính mà hai tuần
sau anh sẽ đến xin hẳn là Tính không thể từ chối. Và nếu cần, anh
sẽ ”khấn“ lại tên tuổi của anh để Tính khỏi quên. Lại có người đến
từ sáng nhưng cứ quanh quẩn ngoài ngõ đợi ông Hà lên trực bên linh
cữu mới vào thắp hương viếng. Hầu hết những người không quen thuộc
với cụ Đồ trước hoặc sau khi đưa đám đều tạt vào thăm ông Hà, nắm
lấy bằng được bàn tay ông để chia buồn. Với Tính cũng thế. Tất cả
những cử chỉ ấy cốt để hai con người không thể quên rằng họ đã có
mặt trong cái đám tang lớn của gia đình các anh. Người xa lạ đã
vậy, ngay con cháu và anh chị em gần xa, ai hàng năm hàng đời không
lai vãng, không bẻ cho nửa của khoai lúc đói kém thì gào khóc to
nhất, thảm thiết đến nẫu lòng. Trong những tiếng khóc của người
thân thích ai cũng cảm động về nỗi đau đớn, sự mất mát lớn lao ở
người con dâu cả. Chị vật vã, đã có lúc ngất đi và tiếng đã khản,
chị vẫn kêu van thống thiết ”ối cha ơi, cha chết đi, con lớn con bé
của cha biết trông cậy vào ai, cha ơi ời...“ - ”ối cha ơi, từ nay
các cháu của cha biết tìm đâu thấy ông, để ông dạy bảo các cháu lớn
khôn như ông đã nuôi dạy con cái, có đi đến chân trời góc biển nào
cũng không thua anh kém chị... cha ời...“- ”ối cha ơi, mới trưa hôm
kia con hỏi cha có thèm của ngon vật lạ gì con hầu cha, cha bảo con
rằng cha đã đầy đủ rồi bây giờ cha đã bỏ chúng con, bỏ đàn cháu thơ
dại, cha đi đâu rồi cha ơi...“
Tuyết cũng là người khóc ”thường trực“ cùng chị cả. Duy chỉ có vợ
Tính chỉ oà khóc như gào lên lúc ông cụ vừa tắt thở và khi liệm,
còn chị phải chạy tất bật với bao công việc: cau trầu, chè thuốc,
lo cơm phường kèn, phường trống... Chỗ nào cần, việc gì thiếu hụt
chị đều phải làm, phải lo. Nhiều khi bạn bè đến không thấy vợ Tính,
anh ngượng tìm gọi chị: ”Mẹ Tính cứ đi đâu thế“ - ”Thế bao nhiêu
việc cứ bỏ đấy à? Bố nó xem những việc dưới này có ai giúp tôi được
việc gì không!“ Anh lại phải bảo vợ: ”Thì mẹ nó lại phải trông nom
cho chu tất hộ tôi“. Anh biết rằng sẽ không ai chê cười vợ anh bất
hiếu vì cả làng, cả xã đều nói với anh suốt mấy tháng trời về việc
vợ anh trông nom phụng dưỡng bố chồng ốm như thế nào.
Hương và hai bạn về đến nơi khi mọi người đã bắt đầu khiêng linh
cữu ra nơi trồng đòn. Nỗi tang thương cồn lên theo dần ra ngõ. Cô
vào bàn thờ đặt hương hoa, ngước mắt nhìn tấm ảnh của cụ giữa lặng
vắng, lạnh lẽo, phút linh thiêng rào lên mắt cô. Cô nhìn lên tấm
ảnh hồi còn trẻ của cụ như bắt gặp Sài của mười lăm, hai mươi năm
sau. Đứa con gái như sợ hãi cảnh vắng vẻ, nó túm lấy áo mẹ. Cô lén
lau nước mắt quay ra. Hai anh bạn vẫn đứng chờ ở cửa, cả ba người
lặng lẽ lẫn vào đám đông đang ùn ùn giạt xô lại phía nhà. Trên
đường ra nơi an táng, Hương không thể cầm được nước mắt. Cô cố giấu
mình giữa đám đông đảo ồn ào. Cô khóc về nỗi đau thương do bao
nhiêu tiếng khóc quanh mình, do tiếng kèn cũng thảm thiết như tiếng
khóc, tiếng trống, tiếng thanh la, tiêng hai thanh tre cách cách
làm chịch...
Tất cả đều như là sự chia li, cách trở, sự mất mát không thể bù
đắp. Cô khóc vì thương tiếc cụ đồ. Cô khóc vì sự xa vắng của Sài.
Cô khóc cho cả nỗi đau đớn của mình vì sao gắn bó với gia đình này,
giờ phút thiêng liêng cô tự coi mình như một đứa con dâu, phải khóc
cho cả nỗi đau đớn của người đi xa. Anh Sài ơi, anh có hiểu lúc này
em khổ sở như thế nào vì tình yêu trắc trở của chúng ta, vì sự hờ
hững của hai đứa mình. Chiếc khăn mùi xoa ướt đầm nước mắt cô vẫn
phải giấu mọi người, giấu cả đứa con gái bốn tuổi đang túm chặt lấy
đuôi áo mẹ. Gần đến huyệt chú Hà từ dưới len lên. Đến chỗ Hương chú
dừng lại: ”Chú biết cháu về từ lúc ở trong nhà. Bấn quá, thông cảm
cho chú“. Chôn cất xong, Hương và các bạn chào anh Tính, rẽ đường
về chợ bái. Anh cảm ơn tấm lòng tốt của những người bạn Sài rồi hỏi
Hương ”Em còn được ở nhà mấy ngày? Chủ nhật anh sẽ đến rồi lên cơ
quan anh chơi“. Tất cả sự âu yếm, trìu mến của chú, của anh sao
không có được từ dăm bảy năm trước? Hay đến bây giờ, biết là tôi
không thể phá vỡ sự nghiệp và hạnh phúc của con em các người, các
người mới hỏi han. Hay vì một cái gì? Hay các người đã thương xót
thằng cháu, thằng em khốn khổ ấy và nuối tiếc? Để làm gì lúc này
nữa! Ăn cơm xong ”con đi ngủ với bà, mẹ bận việc“, Hương ngồi với
ngọn đèn và tờ báo trên mặt bàn. Một tờ báo quân giải phóng đã nhầu
mà anh bạn đến báo tin cụ đồ mất, đã cho Hương. Đầy hai trang giữa
đăng ảnh của Sài và bài viết nói về chiến công của anh. Cô đọc đã
thuộc từ cái dấu chấm, dấu phẩy nhưng vẫn đọc lại từ chữ đầu đến
chữ cuối cùng. Đọc xong lại nhìn tấm ảnh mù mờ, càng nhìn càng mờ
đi, chả nhận ra đặc điểm gì. Nhưng để xa, nhìn đại thể cô vẫn tháy
đôi mắt buồn buồn xa xôi, vẫn thấy đôi môi dầy dặn mím lại lặng lẽ
mà vẫn như gợi mọi người phải nhìn vào nó, tìm ở phía trong nó một
cái ”duyên thầm“ và bao nhiêu điều sâu xa. Người ta bảo đường nhân
trung sâu là ăn ở phúc hậu, có trước có sau phải không? Kim ơi, sao
bạn nói với tôi những chuyện đó muộn thế. Đã hàng trăm đêm phá núi
lấy đá tôn ngầm, phá bom lấp đường giữa ác liệt trung đội trưởng
công binh do anh phụ trách không để một chiếc xe phải chờ ngầm,
không để một cân hàng ra phía trước rơi vãi vì dốc ”bung trôi“ và
ngầm ”mất tích“. Trước đây không mấy đêm là không có xe đổ, hàng
bung ra vì đoạn đường ngầm và đoạn đường dốc quá hiểm trở. Hàng năm
nay chốt giữ trên khu vực ấy các anh phải đối phó với bom đạn địch
mà đêm nào cũng xảy ra. Có đêm năm lần bị oanh tạc, cả năm lần chỉ
trong vòng nửa giờ đoàn xe đã được giải phóng. Các anh đã tôn ngầm,
cải tạo cả hai bờ, biến nó thành con ngầm dễ đi nhất trên tuyến
đường vận tải chiến lược. Dốc ”bung trôi“ cũng được thay bằng con
đường tắt qua rừng Khôộc vừa ngắn vừa bằng phẳng thành đường ”êm
trôi“. Bằng kiến thức khoa học và ý chí kiên cường, trung đội anh
làm đến ba đoạn ngầm và đường ”êm trôi“ như thế.
Bọn địch không ngờ ở một khu liên hoàn trọng điểm nối hai con đường
A và H trước đây mà dựa vào sự hiểm trở của nó, chúng có thể khống
chế dễ dàng, hàng năm nay lại không có cách gì ngăn chặn nổi. Tên
đại uý tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Năm khai: ”Chúng tôi dự đoán đã
có từ hai đại đội đến một tiểu đoàn chốt giữ cho hai khu vực ngầm
và cung đường quanh núi nên đã bố trí lực lượng hành quân một trung
đoàn có phi pháo oanh kích yểm trợ cùng với các đơn vị tại chỗ nống
ra chiếm giữ khu vực trọng điểm cắt đứt cái mắt xích quan trọng
trên con đường vận chuyển bằng cơ giới và đường giao liên của các
ông“.
Trung đội trưởng Giang Minh Sài kể rằng có hai điều khả nghi. Thứ
nhất, đây là lần đầu tiên chúng đánh bom vào lúc năm giờ sáng, khác
hẳn cái quy luật đánh từ trưa ngày hôm trước đến ba giờ sáng ngày
hôm sau. Tất nhiên có lúc khả nghi chúng cũng đánh phá vô tội vạ.
Thứ hai: hàng trăm quả bom dội xuống chỉ có năm quả vào khu vực
ngầm và dốc còn hầu hết tập trung vào khu rừng sau lưng chỗ ở của
chúng tôi quanh một khu đồi trọc. Chắc chắn hiện tượng gì sẽ xảy
ra. Tôi báo động tập hợp trung đội. Tất cả sẵn sàng chiến đấu. Một
tiểu đội ở lại làm lực lượng dự trữ và bám ngầm, bám vào đường bảo
đảm xe đi trong đêm. Hai tiểu đội sẵn sàng cơ động ứng phó với tình
hình mới. Được chừng nửa giờ có tiếng máy bay trực thăng. Linh tính
báo cho tôi biết chắc chắn là chúng sẽ đổ bộ. Tôi hô anh em chạy
lên phía đồi trọc.
Do chủ động nên tôi vác khẩu trung liên chạy ngay sau tiếng hô của
mình. Anh em chạy theo. Tôi phân công mỗi tiểu đội thành một mũi
chiếm hai khu rừng ở hai phía cách đồi trọc một con suối. Tiểu đội
do tôi chỉ huy chiếm ở phía nam tức là phía chúng tôi trú quân.
Rừng còn cháy. Khói bo còn xộc vào đắng cả mũi, tôi hô anh em nhanh
chóng chọn vị trí có lợi, dùng súng trường bắn tỉa nếu chúng thả
thang, còn tiểu liên trung liên thì nhằm vào máy bay khi chúng hạ
cánh. Tôi vừa tìm được phiến đá chỉnh khẩu trung liên thì ba chiếc
trực thăng đã xoáy cái âm thanh như đinh đóng vào đầu. Trời ơi, ví
von. ở nhà có bao giờ dám cãi lại ai câu nào. ức cái gì, hai vành
tai chỉ đỏ nhừ như hơ lửa. Càng ức, càng chết lặng đi để rồi làm
gì, đi đâu không hé răng nói nửa lời. Đã nghĩ chỉ có mình mới hiểu
hết anh, đến cái việc quyết định nhất thì lại không hiểu gì. ảnh
chụp có thật người hay không mà già và gầy gò đến mức ấy! Chiếc thứ
nhất hạ độ cao quay ngang bay dọc suối. Tôi bám nó qua tấm kính
buồng lái tên giặc nằm gọn trong vòng ngắm của tôi. Đây là cơ hội
thuận lợi nhất, nếu chậm một chút, nó chỉ hơi lạng đi thì chỉ còn
máy bay mà mất thằng lái. Tôi nghiến răng lại siết cò. Cùng với
tiếng nổ của tôi chiếc máy bay chao lạng và cứ thế rơi nghiêng
xuống sườn núi, lặn ụp xuống suối. Anh em nhảy lên reo hò, còn tôi
thì toát mồ hôi, không dám tin vào cái điều đang xảy ra nữa. Hai
chiếc sau vội vã vọt lên. Tôi bắn hết già nửa băng còn lại. Bắn
đuổi ”xua” nó đi để mình còn trấn tĩnh chứ ”vuốt“ theo đuôi nó có
trúng chưa chắc đã rơi. Tên đại uý là một trong ba tên còn sống
trong số ba mươi mốt tên trên chiếc máy bay ấy. Được lôi ra, mặt
mũi còn xám ngoét đã khinh khỉnh và bất cần. Tôi đoán hắn là người
thành phố hoặc ít ra hắn đã từng ăn học ở đấy. Nói nhỏ với hai
chiến sĩ nhưng tôi cố tình để cho hắn nghe. Quả nhiên mặt hắn nhợt
hẳn đi. Hắn tiến đến gần tôi lắp bắp: ”Thưa ông... chỉ huy...“-
”Ông chỉ được sống khi nói rõ kế hoạch của các ông“- ”Tôi xin phép
gặp riêng ông“ Hắn nói nhỏ chỉ đủ cho tôi nghe. Tôi và hắn đi cách
các chiến sĩ và hai tên nguỵ một đoạn nữa. Trong vòng năm phút tôi
và hắn đã đối thoại xong về kế hoạch của một cuộc hành quân và sự
cam kết về tính chính xác trong lời khai của hắn. Tôi cũng biết hắn
có một vợ, một con ở Sài Gòn. Vợ hắn đã xin cho hắn được chuyển về
biệt khu thủ đô trong tháng tới. Một kế hoạch tác chiến được vạch
ra. Một trung đội thiếu sẵn sàng chờ đánh một trung đoàn đủ của đối
phương. Sao những ngày ở nhà anh không thể táo bạo đến liều lĩnh
được như thế? Có phải trước khi đi anh đã tha thẩn suốt một tuần lễ
ở gần chỗ em không? Anh đã nhìn em hàng giờ đồng hồ trước khi anh
Hiểu vào nhà ư?
Anh giục anh Hiểu vào cốt để xem em có nói gì đến anh! Nhưng lúc ấy
nào em có thể nhắc đến anh mà không đầy nỗi uất ức căm giận. Cũng
chỉ tại anh thôi. Nếu không dũng cảm thì có thể làm được việc gì!
Sau ba giờ độc lập chiến đấu với một lực lượng gấp hơn hai mươi lần
có bom pháo yểm trợ trung đội của họ đã bắn rơi bảy máy bay và diệt
hàng trăm tên lính. Họ giữ vững trận địa cho đến khi có lực lượng
chi viện của ”bãi khách“, của trạm và các chiến sĩ lái xe. Quân
địch phải tháo chạy trước sự áp đảo của quân ta, bỏ lại mười hai
máy bay lên thẳng và hai trăm bảy mươi ba xác chết. Người trung đội
trưởng của Trung đội Anh hùng ấy trở thành chiến sĩ ưu tú và vinh
dự đứng trong hành ngũ của Đảng nhân dân cách mạng ngay đêm chiến
thắng. Giá anh cứ đi chiến trường trước đấy một vài năm làm gì đến
nỗi. Anh Hiền ơi, anh có đến nỗi nào! Sao anh bắt người ta làm cái
việc tội lỗi ấy. Mà tại sao Kim không nói với tôi ngay từ những lần
đến bệnh viện thăm chị gái để tôi khỏi phát điên lên khi nghe tin
anh trở lại yêu vợ, phản bội tôi. Gặp bất cứ cán bộ, chiến sĩ nào ở
binh trạm YN này cũng đều biết đến Giang Minh Sài, biết đến con
người bất chấp gian khổ, bất chấp hy sinh hay nói một cách khác đối
với anh trong cuộc chiến đấu một mất một còn từng giây, từng phút
này không hề có gian khổ, hy sinh bởi vì không bao giờ anh nghĩ tới
nó, cũng không bao giờ, ở đâu những hy sinh gian khổ lại có thể cản
được nhiệt tình cách mạng, ý chí kiên cường của anh.
Cái làm nên bản lĩnh kiên cường của người dũng sĩ ưu tú ấy đơn giản
thế này thôi. Cũng chính những ngọn núi cây rừng và dòng suối cách
đây ba năm về trước đã chứng kiến cái chết cay đắng của người bạn
anh. Thương anh thèm một bữa rau bạn đã dẫn anh đi lấy! Rau chưa
lấy được máy bay giặc Mỹ theo toạ độ chỉ điểm của bọn thám báo đến
bỏ bom giết chết bạn anh. Nỗi đau vô cùng thành lòng căm thù vô hạn
với bọn giặc cướp nước và bán nước. Và sâu xa hơn nữa, cái làng V
suốt đời ngập lụt của anh, bọn đế quốc phong kiến đã bóc lột đến
tận xương, tuỷ người nông dân, mối hận thù nuôi lớn từng ngày, vừa
đến tuổi mười tám anh đã xung phong nhập ngũ và tìm mọi cách xin ra
chiến trường giết giặc lập công. Còn một nguyên nhân nào khác nữa
không? Cái đêm trăng giữa ngày lụt ấy anh đã bảo em: anh sẽ đi bộ
đội càng đi xa càng tốt, càng làm việc gì nguy hiểm càng tốt. Dù
lao vào lửa vào bom mà chết còn hơn là phải sống với ”cô ta“. Anh
kể hay nhà báo ”bịa ra“! Nhưng nên như thế thì hơn. Không hiểu
những năm tháng qua tận thăm thẳm xa xôi anh đã nghĩ những gì? Đừng
nên liều lĩnh như những lời đã nói với em anh nhé. Em vẫn ở bên
anh, một người đàn bà đã có chồng, bỏ con để trở về với anh nhưng
em vẫn là tình yêu suốt đời của anh cũng như anh mãi mãi là tình
yêu duy nhất đời của đời em.
Đừng khóc khi trở về thấy em âu yếm vỗ về chồng con mà câm lặng,
lẩn tránh em. Anh bé bỏng của em ơi. Nhưng... anh ơi... Nhưng đến
bao giờ em mới có thể để anh hiểu nỗi lòng em, để anh bớt đau đớn,
tủi hận. Bao giờ! đến bao giờ hở anh!!!