Thời xa vắng
Tác giả: Lê LựuLàng bập bềnh như trôi trong đêm sương muối. Những
cây cau thẳng đuột cao vóng như chỉ chực lao thẳng đến tận trời
chìm ngập giữa âm thầm giá lạnh Đã năm đêm nay sương làm táp đen
những luống khoai làng và những cây đòn tay bằng tre ngâm nổ toang
toác. Nhưng có lẽ đêm nay cái lạnh mới thấu từng khớp xương ông đồ
Khang. Từ trưa hôm qua đến giờ chưa có hạt gì vào miệng, ông cứ
siết mãi sợi dải rút như dính ệp vào xương sống. Sau khi đã trút
nỗi uất giận lên đầu thằng con trai út, thằng Sài, ông thấy tủi
phận và bây giờ sự trống trải giá buốt như từ giữa ruột mà tràn ra.
Ông lẩy bẩy đứng dậy. Lần ra đầu ngõ, lặng lẽ đứng giữa sương giá,
một thoáng tái tê cám cảnh phận mình, ông phải đưa bàn tay xương
xẩu bấu vào thân cây ổi trước cổng. Nhưng cơn giận vẫn chưa thể
nguôi, nề nếp và danh dự vẫn như sợi dây đay xiết chặt, ông trở lại
nhà, ngồi xuống chỗ cũ. Chiếc tràng kỷ lạnh toát như có ai vừa dội
nước. Nếu cách đây mấy phút ông muốn thốt lên: "Liệu bây giờ nó ở
đâu, rét mướt thế này" thì bây giờ nỗi hậm hực lại muốn trào ra:
"Cho mày chết, cá không ăn muối cá ươn. Trời ơi mặt mũi nào ăn nói
với người ta". Thằng Sài đuổi vợ nó đi, nhưng việc ấy đâu có phải
là của nó.
Quả có thế, thằng Sài chỉ biết có hai việc: đi đánh trận giả và
học, nó không thể ý thức được là nó đã có vợ, mặc dù nó vẫn đỏ mặt
lên khi có người hỏi: "Cu Sài, vợ mày đâu". Hơn một năm nay sự có
mặt của con bé ấy ở nhà này làm cu Sài có phần thích thú chỉ ở chỗ
mỗi chiều nó ngồi viết tập và làm tính đã có người quét sân và cái
ngõ dài thăm thẳm. Nhưng nó cũng uất ức vì tự nhiên có một con bé
cứ theo nó kè kè để mách bố, mách mẹ nó, nào những lúc đi đùa nó
bôi nhọ hết mặt mũi giả làm Tây đen ở đâu, lặn hụp xuống cái ao
ngầu bùn của nhà chú Hà lúc nào và "Anh ấy lại bảo bố con như lão
hàng tre thầy mẹ ợ". Nỗi ẫm ức của thằng Sài cho đến trưa nay mới
bật ra. Nó đã hơn mười tuổi, lại con nhà nghèo nhưng là con út, mọi
việc đã có các chị dâu làm, khi các anh chị ra ở riêng, nó có vợ,
dù vợ chỉ lớn hơn nó ba tuổi, nhưng đã làm được các việc nặng của
người lớn, chẳng hạn như việc giã ngô bằng chày tay, nó chưa thể
nhắc nổi cái chày dài gấp hai người nó lên khỏi miệng cối thì vợ nó
"con bé ấy" đã thoăn thoắt giơ lên, rồi dồn sức giã vào giữa lòng
cối vừa mạnh mẽ, vừa như hút xoáy những hạt ngô ngâm trơn truội
khỏi chao vọt ra ngoài. Giã một đã khó "con bé ấy" giã đôi cũng dẻo
và tiếng cahỳ thình thịch nghe chắc như sức giã của người lớn. Mỗi
buổi, khi ánh nắng từ trong nhà ra chớm đầu hàng gạch bó thềm, dù
làm bài hay chơi đùa ở đâu, cu Sài cũng chạy về vớt ngô ngâm trong
nước sôi từ tối hôm trước để róc nước rồi lảng vảng ở đâu đó đợi
khi có tiếng gọi "Đâu về mà gạt ngô", cu Sài lẳng lặng đi vào đặt
quyển sách tính ở trong lòng, mắt cụp xuống gờm gờm, lặng lẽ ngồi
vào chiếc chổi lúa, , mặt cuẫn cắm nghiêng xuống phía ngoài miệng
cối. Khi ấy ngô đã dập đôi,, giập ba, tiếng chày đã chắc lại. Không
nhìn chỉ cần nghe tiếng chày, Sài vuốt nhẹ vòng quanh miệng, đủ để
cho những mảnh to, đềuu đặn chảy xuống rồi nhanh chóng rút tay lên
thành và lại tiếp tục mỗi khi nghe tiếng "thịch". Ngô nục, "nó"
dựng chày ngồi xuống dần bột còn Sài lặng lẽ đứng dậy ra cửa đọc
sách. Khi nghe tiếng chày gõ vào miệng cối như kiểu phó cả lò rèn
dạo búa trên đe, Sài lại lặng lẽ đi vào, ngồi xuống chỗ cũ làm phận
sự ở lượt thứ hai, rồi lượt ba cho đến khi chỉ còn những hạt tấm
tròn bóng toen hoen trong lòng cối thì Sài hết phận sự, lặng lẽ
đứng dậy. Ra đến cửa, nó chạy oà đi như con gà, con ngan vừa bị
nhốt ra khỏi lồng
Chương 1
Chương 1
Làng bập bềnh như trôi trong đêm sương muối. Những cây cau thẳng
đuột cao vóng như chỉ chực lao thẳng đến tận trời chìm ngập giữa âm
thầm giá lạnh Đã năm đêm nay sương làm táp đen những luống khoai
làng và những cây đòn tay bằng tre ngâm nổ toang toác. Nhưng có lẽ
đêm nay cái lạnh mới thấu từng khớp xương ông đồ Khang. Từ trưa hôm
qua đến giờ chưa có hạt gì vào miệng, ông cứ siết mãi sợi dải rút
như dính ệp vào xương sống. Sau khi đã trút nỗi uất giận lên đầu
thằng con trai út, thằng Sài, ông thấy tủi phận và bây giờ sự trống
trải giá buốt như từ giữa ruột mà tràn ra. Ông lẩy bẩy đứng dậy.
Lần ra đầu ngõ, lặng lẽ đứng giữa sương giá, một thoáng tái tê cám
cảnh phận mình, ông phải đưa bàn tay xương xẩu bấu vào thân cây ổi
trước cổng. Nhưng cơn giận vẫn chưa thể nguôi, nề nếp và danh dự
vẫn như sợi dây đay xiết chặt, ông trở lại nhà, ngồi xuống chỗ cũ.
Chiếc tràng kỷ lạnh toát như có ai vừa dội nước. Nếu cách đây mấy
phút ông muốn thốt lên: "Liệu bây giờ nó ở đâu, rét mướt thế này"
thì bây giờ nỗi hậm hực lại muốn trào ra: "Cho mày chết, cá không
ăn muối cá ươn. Trời ơi mặt mũi nào ăn nói với người ta". Thằng Sài
đuổi vợ nó đi, nhưng việc ấy đâu có phải là của nó.
Quả có thế, thằng Sài chỉ biết có hai việc: đi đánh trận giả và
học, nó không thể ý thức được là nó đã có vợ, mặc dù nó vẫn đỏ mặt
lên khi có người hỏi: "Cu Sài, vợ mày đâu". Hơn một năm nay sự có
mặt của con bé ấy ở nhà này làm cu Sài có phần thích thú chỉ ở chỗ
mỗi chiều nó ngồi viết tập và làm tính đã có người quét sân và cái
ngõ dài thăm thẳm. Nhưng nó cũng uất ức vì tự nhiên có một con bé
cứ theo nó kè kè để mách bố, mách mẹ nó, nào những lúc đi đùa nó
bôi nhọ hết mặt mũi giả làm Tây đen ở đâu, lặn hụp xuống cái ao
ngầu bùn của nhà chú Hà lúc nào và "Anh ấy lại bảo bố con như lão
hàng tre thầy mẹ ợ". Nỗi ẫm ức của thằng Sài cho đến trưa nay mới
bật ra. Nó đã hơn mười tuổi, lại con nhà nghèo nhưng là con út, mọi
việc đã có các chị dâu làm, khi các anh chị ra ở riêng, nó có vợ,
dù vợ chỉ lớn hơn nó ba tuổi, nhưng đã làm được các việc nặng của
người lớn, chẳng hạn như việc giã ngô bằng chày tay, nó chưa thể
nhắc nổi cái chày dài gấp hai người nó lên khỏi miệng cối thì vợ nó
"con bé ấy" đã thoăn thoắt giơ lên, rồi dồn sức giã vào giữa lòng
cối vừa mạnh mẽ, vừa như hút xoáy những hạt ngô ngâm trơn truội
khỏi chao vọt ra ngoài. Giã một đã khó "con bé ấy" giã đôi cũng dẻo
và tiếng cahỳ thình thịch nghe chắc như sức giã của người lớn. Mỗi
buổi, khi ánh nắng từ trong nhà ra chớm đầu hàng gạch bó thềm, dù
làm bài hay chơi đùa ở đâu, cu Sài cũng chạy về vớt ngô ngâm trong
nước sôi từ tối hôm trước để róc nước rồi lảng vảng ở đâu đó đợi
khi có tiếng gọi "Đâu về mà gạt ngô", cu Sài lẳng lặng đi vào đặt
quyển sách tính ở trong lòng, mắt cụp xuống gờm gờm, lặng lẽ ngồi
vào chiếc chổi lúa, , mặt cuẫn cắm nghiêng xuống phía ngoài miệng
cối. Khi ấy ngô đã dập đôi,, giập ba, tiếng chày đã chắc lại. Không
nhìn chỉ cần nghe tiếng chày, Sài vuốt nhẹ vòng quanh miệng, đủ để
cho những mảnh to, đềuu đặn chảy xuống rồi nhanh chóng rút tay lên
thành và lại tiếp tục mỗi khi nghe tiếng "thịch". Ngô nục, "nó"
dựng chày ngồi xuống dần bột còn Sài lặng lẽ đứng dậy ra cửa đọc
sách. Khi nghe tiếng chày gõ vào miệng cối như kiểu phó cả lò rèn
dạo búa trên đe, Sài lại lặng lẽ đi vào, ngồi xuống chỗ cũ làm phận
sự ở lượt thứ hai, rồi lượt ba cho đến khi chỉ còn những hạt tấm
tròn bóng toen hoen trong lòng cối thì Sài hết phận sự, lặng lẽ
đứng dậy. Ra đến cửa, nó chạy oà đi như con gà, con ngan vừa bị
nhốt ra khỏi lồng.
Trưa nay không hiểu vì sao con bé lại giã trẹo vào tay thằng Sài.
Sài hoảng hốt kêu "ối" một tiếng bao nhiêu nỗi ẫm ức vốn tích tụ
sẵn, nó vừa thu cái tay đau vào bụng vừa vung tay lành thụi vào mặt
"vợ" nó . Con bé không lùi, không giơ tay đỡ, cứ đứng trân trân
hứng chịu những câu xỉ vả của thằng Sài. Một lúc sau cái tay đã dịu
đi, nỗi ấm ức cũng đã hả, và thằng Sài thấy mệt bã bời, nó rấn lên
nhưng không đánh mà nói câu đầy oai vệ để rút cửa cho đỡ ngượng "Bố
mày đến đây cũng đếch sợ, ông huých cho chó nó cắn lồi mắt bố mày
ra". Thằng Sài không ngờ cái câu nói đó lại làm ông đồ Khang bố nó
đau đớn uất giận đến thế. Khoảng xế trưa ông mới bán xong mấy cây
tre từ quán hàng Táo trở về. Như mọi bữa, ông vẫn thấy Tuyết, con
dâu ông lọc vôi, bắc nồi rồi tiếng đũa cả đánh bột nghe quàm quạp
như đã nhìn thấy nồi bánh đúc ngô vàng ngậy quánh dẻo ở trước mặt.
Lệ thường sau những tiếng hối hả ấy, nó rụi lửa, gon miệng nồi, úp
vung lại và tiếng lách cách của bát đũa đặt ở mâm. Thấy ắng lặng
hẳn đi, ông đã định hút xong điếu thuốc lào đứng dậy gọi thằng Sài
về và ngầm ý nhắc nhở con dâu dọn cơm quàng lên, ông đói muốn lả đi
rồi. Năm hết, tết đến, mỗi ngày giữ được một bữa bánh đúc ngô thế
này đã khó. Trưa qua có khách ông phải nhường bát, sáng nay lại
thay bà ấy vác mấy đoạn tre đi chợ, trở về, hai chân đã run run.
Vừa nhả hơi thuốc ông vừa quay ra cửa thấy con dâu ông giàn giụa
nước mắt, cắp gói quần áo mếu máo "Con xin thầy mẹ con về nhà con".
Con bé kể rành rọt và khúc triết sự tình xảy ra. Càng nghe, mặt ông
càng tối rầm lại. "Thôi thầy xin con, con cứ ở nhà" . Nhưng con bé
nhất quyết ra đi, đi một cách bình thản, tự tin và bất chấp lời can
gọi vừa tha thiết vừa có phần gắt xẵng của ông.
Thằng Sài được người mách bảo, che chắn ông đồ Khang không tìm thấy
nó. Ông gọi tất cả con dâu, con giai kể cả anh Tính là cán bộ của
phòng thuế nông nghiệp huyện học ba tháng trên tỉnh vừa dắt chiếc
xe đạp vê, ông đã bắt vứt đi từng nhà tìm thằng Sài. "Không có con
thì đừng" - "Ai thấy nó đầu làm ơn mách tôi. Thằng này mà sống, cả
nhà tôi chết đứng vì nó".
Bằng cách nào đó thằng Sài nghe thấy tất cả lời lẽ có khi còn
nghiêm trọng hơn sự uất hận của ông đồ. Trời chạng vạng tối nó vuột
ra cánh đồng. Nhờ sương hôm xuống dày đặc, chỉ chạy cách rặng tre
chừng dăm chục bước đã thấy mờ mịt, nhưng tiếng ồn ào phía trong
vẫn vọng lên, muốn oà toá theo. Có lẽ ai trông thấy nó ư? Nó chạy
sấp ngửa trên những thửa ruộng mới cày vỡ, những sá cày đất gan
trâu lật lên như những cánh phản rắn bóng nhếnh nháng. Chốc chốc
vấp ngã, mặt nó đập vào đá, đau đến nỗi chỉ thấy nước mắt ứa ra mà
không sao dậy nổi. Nó nằm úp mặt vào đất, nước mắt thấm xuống làm
tảng đất cầy nhão ra, da mặt nó cứng lại, dính ập vào hòn đất mới
cầy vỡ. Nhưng rồi nó vẫn phải cố bò dậy lấy sức chạy, vừa thở vừa
chạy, vừa nghiến răng nén đau mỗi lần vấp ngã. Mãi đến khi không
thể đứng dậy được và có lẽ đã xa lắm rồi, không ai còn đuổi được,
nó mới nằm lại chỗ đống cỏ gà, cỏ gấu nhà ai đốt dở từ hôm nào,
không còn lửa nhưng tro vẫn âm ấm. Nó lấy tay san đống tro lựa chỗ
nằm và vơ những vầng cỏ chưa cháy đắp lên đầu, lên lưng để không ai
nhìn thấy. Nằm chưa ấm chỗ lại nghe lao xao, tiếng gào kêu tên
thằng Sài hoảng hốt. Có cả tiếng anh Tính và chú Hà. Vẫn gần nhà
quá. Nhưgn nó mệt muốn đứt hơi, không còn ngồi dậy được nữa. Nằng
nghe tiếng gọi của chú và anh, nó vừa mừng vừa thấy tủi thân, nước
mắt ứa ra và mồ hôi cũng ướt đầm chiếc áo cánh vải phin gụ. mọt
thoáng sau nó lại thấy run, khắp người run bắn lên, nó vội vã cào
cỏ, cào tro, cào đất gạt lên người, chỗ nào con hở lạnh phải kéo cả
tảng đất cày đắp lên, nó nằm cong như một con sâu đo nằm nghiêng,
thiếp đi trong nỗi hoảng sợ và đói mệt từ lúc nào không thể
biết.
Cái điều nó phấp phỏng chờ đợi đã không xảy ra. Anh Tính đã về và
chú Hà cũng đi tìm nó. Ôi, chú Hà! Nghe nói hồi cưới Sài, chú Hà
không lên vì chú không bằng lòng cho trẻ con lấy vợ. Hôm nay có
chú, có nghĩa là tội lỗi của Sài được che chở. Chỉ cần thấy chú
không vui, cả nhà cả xóm sẽ oà toá ra cánh đồng kêu la tìm kiếm.
Người ta sẽ reo lên ngỡ ngàng khi tìm ra nó và bế nó về xuýt xoa và
mắng mỏ, sai khiến và giục giã nhau thay quần áo, lấy khăn ướt lau
mặt, dỗ dành chiều chuộng nó. Lúc ấy nó đã khoẻ hẳn rồi, đã muốn
nhỏm dậy làm lấy mọi việc nhưng mắt vẫn phải hơi nhắm lại, miệng há
ra thở, đôi môi khô lại, hcana tay vẫn mềm oặt thõng thượi theo
những bàn tay nâng niu nắn bóp và vẫn phải thều thào đáp lại ú ớ
những câu gọi hỏi của mọi người. Cái phút thấp thoáng nghe tiếng
của anh, của chú, nó đã mừng đến ứa nước mắt, đã tủi thân giận dỗi
đến run lên.
Chính lúc ấy chú Hà hỏi, cái lời lạnh như đêm sương muối:
- Ai như anh Tính?
- Gì đấy? Ai hỏi gì.
- Tôi đây!
- A ông. Con tưởng ai. Con vừa mới về.
Đợi anh vội vã đến gần, đứng một đoạn tre cắm xuống đất và sẵn sàng
hứng đỡ mọi lời, ông Hà mới nói, giọng nhỏ, đã cố ghìm nỗi
bực.
- Anh vô ý thức lắm!
- Dạ chú bảo..
- Thằng Sài đuổi vợ nó đi, đấy là việc của thằng trẻ con. Bố anh
đánh chửi thằng Sài, là việc của ông lão phong kiến hủ bại. Còn
anh, anh là cán bộ, gia đình anh là gia đình cách mạng, nếu ngày
mai, ngày kia cả làng, cả tổng đồn ầm ã rằng nhà anh Tính cán bộ
huyện, cháu ông Hà bí thư chi bộ xã cãi nhau, đánh nhau ầm ĩ suốt
đêm thì anh còn mặt mũi nào nữa không? Tôi cho anh lên công tác
trên huyện cốt để anh có điều kiện học tập, được chỉnh huấn cho nó
mở mang, không ngờ anh vẫn...
- Cháu vừa về đến nhà đã thấy...
- Thấy thế nào, anh cũng phải trị thằng em anh không được hỗn. Tý
tuổi đầu đã mất đoàn kết với vợ con. Hỉ mũi chưa sạch đã lên mặt
làm chồng đánh chửi con người ta. Đấy là t ôi chưa kể quyền nam nữ
bình đẳng, nhà nó mà kiện là mất hết, cả tôi, cả anh đeo mo vào
mặt. Đứng trước việc đó vai trò của anh, của người cán bộ hoạt động
cách mạng để ở đâu? Lẽ ra, phải biết giải thích đường lối chính
sách cho bố mẹ anh thấm nhuần. Còn thằng Sài phải cho nó vài cái
bạt tai.
- Vâng.
- Nhưng có đánh nó thì cũng phải kín, kẻo người ta lại bảo cán bộ
không gương mẫu.
- Vâng.
- Nhưng mà... chủ yếu là đe nẹt rồi báo cho thầy giáo và phụ trách
kiểm điểm ở lớp, ở đội, đừng làm gì ầm ĩ lên.
Nói được đến đâu nỗi giận của chú hả vợi đến đấy. Tính không ngờ vì
thương em và vốn không ưa gì cái lề lối gia giáo của bố, anh đã
hoảng hốt đi tìm nó. Thấy anh hoảng, vợ anh cũng hoảng, mấy bà thím
dù thực lòng không để tâm lắm cũng giục giã con cái đi tìm anh Sài
làm ồn ã cả một góc xóm. Cái việc nhỏ ấy đã biểu hiện ý thức non
nớt của anh, anh đã để chú Hà cho rằng mấy tháng nay tuy đi học
trên tỉnh nhưng anh vẫn chưa hề có tiến bộ gì.
Anh lững thững đi về nhà, ngồi vào chiếc tràng kỉ âm thầm như một
bóng ma. Mãi mới ngẩng lên anh quát xuống bếp:
- Đi đằng nào, có châm hộ cái đèn không? Nhà cửa mù mịt lạnh lẽo
như nghĩa địa mà vẫn để được, tôi lạ thật.
Anh quát vợ. Không ngờ, nói vừa dứt đã thấy một ngọn lửa xoè lên ở
tràng kỷ bên kia. Bố đã ngồi lặng lẽ ở đấy khi nào. Ông lật bật
nhắc bóng đèn dầu, đặt ngang chiếc đóm tre ngâm đang cháy, gạt gạt
ống muỗng cho tàn than trên đầu bấc rời ra, kéo chiếc đóm lùi lại
để ngọn lửa chèm lên đầuu muỗng và khi ngòi bấc nhú lên, bắt được
ngọn lửa, ông chụp chiếc bóng ngay ngắn rồi mới dụi đóm vào khe
chiếc điếu bát. Tất cả cử động ấy của ông của ông diễn ra một cách
rụt rè và chậm, dường như nó là cái cớ để ông nghĩ ra một điều gì
đó, sẽ nói một lời nào đó với thằng con ông. Vợ chồng ông có tám
mặt con nhưng chỉ còn ba. Ba thằng con trai. Thằng cả thì đần và đã
ở chỗ khác, cả nó, cả ông đều thấy yên phận kẻ làm con và người làm
cha, không thấy phiền muộn trói buộc gì nhau. Thằng thứ hai, anh
Tính - ông vẫn quen gọi một cách vị nể mà lạnh nhạt ấy. Nó đã có vợ
và cũng đã ăn riêng, nhưng vẫn ở cùng nhà, quan trọng hơn, nó cùng
hoạt động với ông Hà, người em ruột ông. Nó với ông như hai đầu của
sự đầy vơi có thể san lấp cho yên bằng mỗi khi sóng gió. Ví như khi
nó lén lút liên lạc với ông Hà có bắt bớ, giam cầm thì nhờ vào sự
quý trọng của ông, một thầy đồ đã một thời nổi danh nhất thì ở vùng
này, người ta đã cứu giúp nó. Người ông phải chịu ơn nhiều là ông
phó tổng Cự, bố vợ thằng Sài bây giờ. Dăm bẩy tháng nay hoà bình
được lập lại có ai khinh rẻ những người cổ hủ phong kiến thì vẫn
phải nể ông, "ông cụ nhà anh Tính", "Cụ là anh của ông Hà". Ông và
nó đều có những đận khổ sở, khốn đốn về nhau nhưng lại có lúc hãnh
diện mừng thầm mình có thằng con (hoặc ông bố) thức thời, chịu lấy
vất vả gian truân mà học hành, hoạt động. Nhưng ông và nó chưa mấy
khi nói năng với nhau dễ dàng. Hai cha con vẫn như hai người khách!
Ngẫm kĩ, ông thấy nó cũng như vô số loại người khi hưởng lộc do
công lao người khác đem lại thì hỉ hả dễ chịu, còn lúc phải gánh xẻ
nỗi cay đắng với kẻ khác, dù đó là máu mủ ruột thịt, cũng thấy
ngại, dễ nổi xung và có quyền được xỉ vả hắt hủi kể yếm thế. Lẽ đời
là thế nên nó sẵn sàng bắt bẻ hạch sách ông theo cái lối của nó,
gọi là phê bình. Nhưng ông có lý của ông. Một nề nếp, một thói
quen, một thông tục cha truyền con nối từ mấy đời nay: con cái
không được quyền muốn sao được vậy vì như thế là trái với phép tắc
gia phong. Nghĩ đến đây ông thấy mình có lý, thấy vững tâm hơn,
cũng lại thấy sự lặng lẽ của nó cứ lù lù mỗi lúc một trương lên, đè
trùm xuống cả ba gian nhà lạnh lẽo.
- Tôi thấy thầy nuông thằng Sài lắm rồi bây giờ mới khổ.
Nó định ăn nói kiểu gì thế này. Mặc dù kiểu gì ông cũng cso cớ để
bắt chuyện với nó được dễ dàng.
- Anh bảo tôi sung sướng với thằng em anh lắm à?
- Nếu ngày nào thầy cũng đe nẹt nghiêm ngặt với nó thì đâu đến
nỗi.
Thật lòng mỗi lần về nhà thấy thằng em vốn ham mê học hành mà cứ
mếu máo nước mắt ngắn, dài, về cái tội "cùng ăn, cùng làm" và
chuyện trò với "vợ", anh thấy tội nó qua. Hơn nữa, anh vẫn mang nỗi
hận với nhà phó Cự. Dù hắn đã xin cho anh được tha từ đồn Tây về
nhưng nó vẫn thì thụt tố giác, chỉ điểm bao nhiêu việc anh và cán
bộ nằm vùng. Anh biết rằng điều anh vừa nói không thật lòng với
mình nhưng chú Hà đã bảo lúc này phải hết sức tránh cái gì có thể
làm ồn lên. Nhất là chú lại đang bực về việc làm vô ý thức của
anh.
Hơi ngỡ ngàng về sự đồng tình của con trong việc này, ông đồ đã
thấy yên tâm hơn rất nhiều. Nhưng đến khuya, thì xóm mạc lại xáo
xác bởi tiếng kêu khóc của bà đồ Khang.
Từ nửa đêm hôm qua bà phải đội lọ lục bình lên tận Đa Hoài mới cầm
đổi được lưng thúng gạo về chống đói. Về đến nhà đặt thúng xuống
phản, bà nằm luôn đấy thiếp đi. Ông đồ nhờ con dâu nấu cho nồi
cháo. "Nấu kha khá vào anh chị ăn một thể". Cháo chín, bà được lay
dậy. Mắt nhắm, mắt mở húp gần hết bát cháo bà mới nhận ra không có
vợ chồng thằng Sài. Bằng sự dồn hỏi hoảng hốt bà biết mọi sự xảy
ra. Đặt bát cháo húp dở xuống mâm bà lao ra sân ngửa mặt lên trời
kêu than rồi sai con dâu đốt cho bó đuốc bằng cây đay khô. Bà cầm
đuốc vừa chạy vừa gọi con vừa kêu giời đất, bất chấp cả mọi tai
tiếng ảnh hưởng cả đến danh dự, uy tín mà con trai ra sức gìn giữ.
Bà chạy đi. Vợ Tính cũng phải chạy đi. Mấy đứa cháu ruột cũng chạy
đi. Sự hoảng sợ của bà cộng thêm nỗi huyên náo rất hệ trọng của đám
trẻ, làng Hạ Vị đêm nay sẽ vợi đi nỗi đói rét ra cánh đồng, chỗ
người ta xúm đông đặc quanh đống tro thằng Sài phủ lên người
nó.
Đã qua cái đêm cả làng, cả xóm đổ đến xô đẩy nhau nhốn nháo ở ngoài
cổng và khi vào đến sân tất cả đều nghiêm trang nín thở để nghe
tiếng gọi dồn dập của không biết bao nhiêu người nêm chặt trong ba
gian ông đồ Khang.
Bẩy vía ba hồn Sài ơi về với mẹ đi con" "Bẩy vía ba hồn thằng Sài"
ở đâu thì về với bố, với mẹ Sài ơi". Những tiếng gọi hoảng hốt.
Những ngón tay bóp chặt lấy ngón tay cái và chí vào hai bên thái
dương thằng Sài một cách hoảng hốt. Những bát lông gà, bồ kết đốt
khỏi sục vào mũi thằng Sài môt cách hoảng hốt. Những đĩa rượu đốt
cháy bùng xanh chườm tóc rối và gói gừng giã nhỏ đánh trên lưng,
trên ngực, trên tay thằng Sài một cách hoảng hốt.
Cũng đã qua rồi những ngày cu Sài được vỗ về thương hại. Bảy tám
ngày sau, nói đúng ra chiều ngày thứ bảy, cu Sài đã chạy tuột ra
khỏi cổng nhập vào đám bạn để đọc truyện cho chúng nghe thì uy lực
của bà đồ trong mọi việc "lớn" của gia đình cũng có phần giảm bớt.
Ông đồ trở lại phận sự của ông. Người đàn ông trong nhà dù đần độn
ngu si đến đâu cũng vẫn là cái cột cái định đoạt mọi việc. Ngay tối
hôm ấy theo ý anh Tính ông "họp" gia đình gồm hai ông bà, vợ chồng
anh cả, vợ chồng Tính và cu Sài. Có bẩy người "họp" thì ba người
xoi như không can dự. Bất cứ việc gì vợ chồng anh cả cũng "thôi thì
thầy định thế nào chúng con theo thế". Mỗi khi cái quyền làm trưởng
được nhắc đến "ý anh chị cả định thế nào?", người con trưởng cũng
gật gật đầu vẻ nghĩ ngợi đăm chiêu một lúc mới nói. Bao giờ anh
cũng nói ra cái điều mọi người đều biết trước từng câu, từng lời
anh sẽ nói như thế. Có lần vui vẻ chị vợ tinh khôn đã bảo "Thầy hỏi
nhà con như hỏi bức vách ăn thua gì". Nhưng những việc căng thẳng
như đóng góp giỗ tết ma chay hoặc sự xích mích trong gia đình, chị
thường là người im lặng từ đầu đến cuối. Có ai hỏi chị, chị trả lời
rất gọn nhẹ: "Mọi việc là quyền ở nhà tôi". Lập tức anh cả cũng gật
đầu nghĩ ngợi và nói ra điều mà ai cũng biết chắc là sẽ vừa lòng
chị, cốt không thiệt đến mình mà cũng chả động đến ai. Những "cuộc
họp" gia đình để quyết định những việc hệ trọng như thế, sự có mặt
của vợ chồng anh như là thừa. Nhưng không có vợ chồng anh, khôn bao
giờ thành "cuộc họp". Vả lại mỗi khi có chuyện nặng nề mọi người
còn im lặng căng thẳng, ông đồ thường hỏi ý kiến anh chị cả và anh
lại "thôi thì". Sau sự "thôi thì" dài dòng của anh, hoặc là ai có
nỗi ấm ức thấy sốt ruột quá phải nói bung ra, hoặc có giận dỗi gì
nhau, thấy ý kiến ông anh cả chán quá, thà thôi đi còn hơn. Thành
ra anh lại luôn luôn trở thành người quan trọng trong gia đình. Còn
vợ Tính chỉ biết làm, chị làm được tất cả mọi việc theo ý bố mẹ
chồng, theo sự sai khiến cau có của chồng, và tắm rửa giặt rũ, mắng
mỏ và chiều chuộng thằng Sài như thằng em út của mình ở nhà. Cuộc
"họp" nào của gia đình chị cũng là người ngoài rìa. Chị sửa sang
lau chùi ấm chén, đun nước và chẻ đóm. Mọi việc xong xuôi chị ngồi
nép ở một góc tối, chăm chú nghe hết mọi điều, có ai hỏi chị, chị
chỉ biết giả nhời "Tôi (con hoặc em) biết đâu đấy. ý của thầy mẹ
(hoặc anh chị cả hoặc "nhà tôi" thậm chí cả "ý chí Sài, thím
Tuyết") thế nào thì tôi làm thế".
Cho nên mỗi lần bàn bạc gia đình chị có ngồi đấy hay không cũng
chẳng ai để ý nếu như chè và thuốc lào, đóm và nước đã đầy đủ tinh
tươm.
Bốn người còn lại tuy sự kìm nén khác nhau nhưng đều giống nhau ở
chỗ ai cũng cảm thấy chỉ có mình là người khổ tâm nhất trong việc
này.
Trước hết, nói về thằng Sài, nhân vật chính của sự cười chê ồn ã
hàng tuần lễ nay. Dù cả nhà đều nhìn nó âu yếm, nói năng vui vẻ và
nói những chuyện tận đâu, nhưng khi được chị Tính dìu từ dưới bếp
lên thằng Sài khóc oà ra và lao vào ôm ngang lấy thắt lưng mẹ,
người nó run lên bật bần. Nước mắt bà đồ tự nhiên ứa ràn xuống hai
má. Bà cúi lấy vạt áo lặng lẽ chấm nước mắt, quay ra ôm ghì lấy
con, gắt.
- Bàn bạc gì thì bàn đi, thằng bé sợ hết hồn rồi đây này.
Ông đồ vẫn nói dịu dàng:
- Ô hay ai làm gì nó.
Chị cả cũng động lòng thương xót.
- Chú Sài, sợ gì em. Để thầy mẹ và các anh chị liệu xem công việc
thế nào, có ai mắng mỏ hắt hủi gì em mà sợ.
Tính nghiêm mặt:
- Sài nín. Thầy có ý kiến thì nói đi rồi mọi người trong gia đình
đều phải ghé vai mà làm. Tôi rất khổ tâm cứ mỗi lần về đến nhà
không chuyện nọ thì chuyện kia. Mỗi người nghĩ một phách, làm một
nẻo, mạnh ai người nấy lo, còn thì "sống chết mặc bay".
Xem cung cách, lời lẽ ấy Tính đã ý thức được mình mới là người lo
lắng và quyết đoán tất cả mọi việc. Không phải anh muốn như thế.
Cái chính là mọi điều tiếng, xấu xa của gia đình đều đổ lên đầu
anh. Thử hỏi cả huyện, cả xã ai biết anh cả là ai. Ngay đến tiếng
tăm của thầy đã mấy ai ở xã ngoài biết đến. Chuyện gì xẩy ra, thiên
hạ cũng chỉ biết bố mẹ đồng chí Tính cán bộ huyện chứ ai có thể
thay anh nhận lấy sự xỉ nhục. Là chưa kể chuyện thằng Sài không
biết đến bao giờ mới hết tai tiếng.
Cũng là danh dự của gia phong, ông đồ lại thấy Tính không thể hiểu
và san sẻ nỗi khổ của riêng ông. Nó cứ đi biền biệt, hoạ hoằn mới
đáo qua nhà, làm sao nó biêt ông điêu đứng như thế nào. Mang tiếng
là ông đồ nho, mấy đời nay chưa hề để ai chê cười nhà mình có
chuyện ăn ở trên dưới như "họ nhà tôm", chưa có khi nào con cái lại
trái ý cha mẹ. Chưa khi nào ăn nói sai ngoa, lá mặt, lá trái. Con
mình đuổi con người ta đi, ai biết đâu là chuyện trẻ con. Tất cả
những chuyện đó thằng Tính làm ông phải rụt rè, ngần ngại là thằng
Tính. Bây giờ không những ông được thể quát nạt, đe nẹt được nó,
ngược lại, làm việc gì ông cũng phải lựa xem ý nó thế nào còn liệu.
Suốt bao ngày nay ông vẫn chưa phải lo nghĩ điều đó nên giọng ông
lúc này còn chưa thể quả quyết.
- Cũng chả ai muốn xẩy ra như thế. Nhưng dẫu sao thì cũng là việc
đã rồi. Bây giờ bà với các anh các chị có cả anh Tính về đây ta bàn
xem cách nào đến xin lối người ta để cho con nó về. "Con dại cái
mang".
Không ngờ bà đồ bốp chát ngay:
- Tôi không phải xin xỏ gì ải cả. Con tôi ốm chín phần chết không
được phần sống, nhà nó có ai thèm lai vãng đến đây? Mà tôi hỏi cớ
gì khi thằng chồng ốm con vợ lại không về.
- Thì con mình đã đuổi nó đi.
- Chấp gì thằng bé hỉ mũi chưa sạch ấy. Mà nó có quyền gì. Trừ phi
ông hay tôi thấy cô ăn đổ làm vỡ không thể chứa được thì mới được
phép ra khỏi nhà tôi. à, ra nhà nó quen thói hà hiếp thiên hạ rẻ
rúng, bỉ mặt ai cũng được.
- Bà liệu mà ăn nói, còn có người nọ người kia nghe.
Bà bảo rằng cứ giữa dạ bà nói, không việc gì phải vụng trộm, giấu
giếm. Rằng, nhà bà đã phải thất điên bát đảo mà họ thì dửng dưng.
Rằng chỉ có bà mang nặng đẻ đau mới thấy xót, mới tủi hổ khi con bà
hoảng sợ đến khiếp đảm mà nhà nó không thèm hỏi lấy một lời. Có ai
đau đớn nặng nhọc gì mà chả tìm cách dàn hoà vui vẻ. Vui vẻ với bất
cứ ai bà cũng sẵn lòng nhưng bây giờ nhất quyết nhà nó phải có nhời
trước, bằng không, làm làm gáo, vỡ làm muôi. Càng nói bà càng có
lý. Những người con dâu thầm chê bai nhà ấy không biết điều. Thằng
Sài thì vẫn áp mặt vào lưng mẹ thỉnh thoảng lại nấc khan từng chập
sẵn sàng oà khóc và kêu xin bố mẹ tha cho đừng bắt con phải đến nhà
nó. Còn thằng Tính, hai con mắt vẫn trân trân nhìn lên mái nhà, môi
mím lại cau có như đang nghĩ gì ở đâu chứ không nghe ai nói ở chỗ
này. Ông đồ hết hút thuốc lại uống nước chè tươi. Hai mắt hình như
cả đôi tai ông chăm chú vào những cử chỉ cố kéo dài ra của công
việc tước đóm và hút thuốc, lau chùi đĩa chén và uống nước nhưng
ông cũng biết hết ý tứ của từng người, trừ có thằng Tình là ông
không hiểu nó đang nghĩ gì. Đó là cái điều đã từ lâu, từ khi nó
tham gia hoạt động đến nay ông luôn ngại, bực bội và thú thật đôi
khi cũng phải chịu lép với những lời lẽ lý sự của nó. Ông biết,
việc gì trong nhà này bây giờ ai cũng nghe nó hơn là nghe ông. Ngẫm
ra cũng phải thôi. Thời này người có chức tước nói mà chả hay ho
mẫu mực.
Tính nói. Cái điều lo sợ nhất của ông đồ đã đến rồi. Chỉ cần ý của
nó nữa là biết rõ sự tình sẽ đi đến đâu. Ông ngồi nghiêng mặt ra
chỗ tối ánh đèn, mải vê điếu thuốc nhồi vào nõ để tránh nỗi phấp
phỏng chờ đợi sự kết cục không thể gọi là nhỏ. Chỉ việc này không
thành cũng đã coi như ông sống bằng thừa, sống vô vị như một xác
chết. Nhưng ông đã lầm. Tính còn lo hơn cả ông. Anh hiểu rõ hậu quả
những chuyện gia đình kiểu thế này không thu xếp ổn thoả sẽ dẫn tới
đâu! Anh nói từng tiếc chắc nình nịch như thể vốn nó là thế, không
thể là khác, không ai có thể thay đổi được.
- Chú Sài đuổi thím Tuyết không có gì phải ầm lên. Thầy làm như thế
là chưa đúng. Thì lúc ấy anh bảo tôi làm sao mà nén được. Những
ngày chú Sài ốm nhà ông phó Cự im lặng thờ ơ là sai, rất đáng
trách. Tôi thấy mẹ đã nói lên tất cả nỗi tức giận của nhà ta. Phải
tỏ thái độ như thế mới đúng. Thế là nó vào hùa với mẹ nó thật rồi.
Nhà mình gây ra sự lại đổ lỗi cho người ta. Kệ, anh nói thế nào thì
nói, mẹ con anh định thế nào thì tuỳ nhưng với lão đồ Khang thì
thằng Sài không thể bỏ con người ta được. Thời buổi này không phải
là lúc họ muốn coi ai ra gì cũng được như trước đây. Nhưng đấy là
việc sau. Trước sau tôi sẽ có cách để nhà họ phải mở mắt ra. Còn
trước mắt ta sử xự khác. Ta không thèm tầm thường chấp vặt. Không
thèm đôi co xem ai đúng, ai sai, không thèm đợi họ phải nói trước.
Quả đi đây đi đó nó cũng có hơn.
- Anh bảo nhà mình phải đi nói trước với họ?
- Đằng nào thì chú Sài cũng không thể bỏ được thím Tuyết. Mọi việc
mẹ cứ mặc tôi. Ta nói trước mới chứng tỏ ta là người lớn không chấp
chuyện trẻ con. Ngày mai nhà Tính đưa chú Sài sang. Chú chỉ cần nói
một câu: "Con đã trót dại đuổi nhà con đi, con xin lỗi ông bà cho
nhà con về". Chỉ cần nói thế rồi về. Xem nhà họ đối xử thế nào, sau
đó tôi sẽ liệu.
Anh dừng lại, uống nước như tự thưởng cho những quyết định của mình
và cũng để dò xem phản ứng của mẹ, của thằng Sài. Ông đồ không nhìn
anh, trong đầu ông vẫn thì thầm đắc ý: Phải thế mới ra người có
học. Cứ tưởng cha con xung khắc, không ngờ nó hợp ý ông như thế.
Chỉ có điều nó theo lối mới nói năng lưu loát, dễ lôi cuốn người ta
hơn.
Bà đồ ngập ngừng
- Thế ngộ nhỡ...
- Mẹ không có "nhỡ" gì cả. Ngày mai cứ thế làm không phải bàn gì
nữa. Khuya rồi, đi ngủ.
Nói những như gay gắt ấy xong, anh đứng dậy xuống gian nhà ngang
của vợ chồng anh. Mọi người vẫn ngồi lại một lúc nữa nhưng không ai
bàn tán gì thêm. Cả bà đồ cũng không phản đối. Cả thằng Sài cũng
không giãy nảy vì ngày mai nó vẫn phải làm cái việc mà nó kinh sợ.
Thì ra đàn bà cũng giống như trẻ con, sẵn sàng chấp nhận ngoan
ngoãn những quyết định nghiêm ngặt đôi khi rất tàn nhẫn chứ không
bao giờ chịu thua trong bàn luận tranh cãi.
..................................................
bạn đang đọc truyện tại yeutruyen.wapsite.me chúc các bạn vui vẻ
.....................................................
Chương 2
Dẫu sao chuyện vợ con thằng Sài cũng là chuyện nhỏ so với nạn đói
đang có nguy cơ loang bùng khắp xã. Không ai còn bụng dạ, hơi sức
đâu để bàn tán, khen chê. Vả lại, chuyện tình của hai đứa trẻ ấy
chưa đến tuổi "phát điên" nên nó vẫn chỉ là nỗi ấm ức hậm hụi của
trẻ con, đôi khi mải chơi đùa, học hành, nó cũng quên là mình đang
bị oan ức trói buộc nghiệt ngã. Lệ thường đã thế huống hồ những
ngày này. Tuy làng mới được giải phóng mấy tháng nhưng không phải
dò mìn, gỡ dây thép gai, nhặt mảnh bom, đầu đạn và san lấp hầm hào
như những làng quanh vùng Tây. Đất làng cũng tầng tầng phù sa trông
ngon như những tảng thịt nạc, nhưng những người nông dân ở đây
không cần đến đất. Nói đúng ra họ dửng dưng với cách bãi bồi mênh
mông màu mỡ. Không hiểu từ thuở nào làng chỉ quen đi làm thuê.
Miếng cơm thiên hạ bao giờ cũng ngon nên người sức dài vai rộng thì
đi tứ chiếng bằng đủ thứ nghề: hàn nồi và cắt tóc, đốt gạch và nung
vôi, thợ nề, thợ đất, thợ lặn... Kẻ giảo hoạt mà lười biếng thì đi
buôn cau con, bán rong thuốc cam, buôn vỏ quạch và chổi tre, tiểu
sành và cối đá. Không có mặt hàng nào đáng giá và những hàng dễ
thiu, vữa đổ, vỡ cũng không ai có gan để buôn. Buôn bán đã non gan
cũng chỉ là tạm bợ giật gấu vá vai, làm sao nghề trong tay, dường
như mục đích cao cả và sự sung sướng hồi hộp của họ cũng chỉ là
kiếm được miếng ăn giữa tháng ba ngày tám, sau đấy vợ chồng con cái
lại dắt díu nhau về cày bừa vội vã, cuốc và đập vội vã, gieo trồng
cũng vội vã để lại bồng bế nhau đi. Dăm bữa, nửa tháng vợ hoặc con
đảo qua để làm cỏ, xáo xới rồi cũng lại vội vã ra đi. Đến mùa thu
hoạch lại về. Hết mùa lại đi. Cứ thế. Khi về lại nhớ cơm thiên hạ.
Khi đi lại cồn cào thương từ gốc cau, bụi chuối. Họ không yêu tha
thiết với đồng ruộng nhưng không đủ sức dứt bỏ những gì quen thuộc
từ thuở cha sinh mẹ đẻ ở cái nơi mà ai cũng quen gọi là quê
hương.
Những người còn lại hoặc tuổi già yếu, con bận con mọn, hoặc không
biết nghề, không quen đi xa, cái lực lượng sản xuất chủ yếu ấy cũng
chỉ chòn chọt năm một vụ ngô, tháng mười cày bừa dối dả, tháng tư
bẻ bắp chặt cây vội vàng để rồi lại nô nức kéo nhau sang bên kia
sông, vào nội đồng làm thuê, sáng cắp nón đi, tối cắp nón về nói
cười rả rích. Dường như số trời đã định cho làng này chỉ có việc đi
làm thuê. Chen lấn, tranh cướp nhau từng người chủ, và ai được chủ
tin thì coi đó là một diễm phúc có thể vênh váo, hãnh diện với kẻ
khác, sẵn sàng hạch sách bắt bẻ người cùng xóm, cùng làng, cùng
cánh thợ làm thuê một cách nghiệt ngã độc ác hơn cả người chủ thật.
Bởi thế, cũng là tỉa ngô, rắc đỗ, ruộng nhà thì làm quáng quàng chỗ
dầy, chỗ mỏng, hàng thưa hàng mau nhưng ruộng của chủ cứ đều tăm
tắp. Ruộng nhà không bao giờ bón phân, cả làng không ai bón phân,
cần quái gì chuồng lợn, chuồng xí. Đàn ông, đàn bà, cả người già
trẻ con đều chạy toá ra đồng và lợn cũng thả rông hoặc có chuồng
thì cũng chả cần phân ấy để làm gì. Chính những con người ấy lại
đánh phân, rửa ráy quét dọn cả chuồng xí, chuồng lợn cho chủ rồi
gánh ra đồng cứ của những người chủ tốt tươi sai quả, mấy hạt lại
theo đà đâu đó, ca thán, và xỉ vả làng mình ngu si không biết đường
làm ăn.
Cái thói quen, thích được chủ tin dùng khen ngợi, thích được sai
bảo mắng mỏ nó bắt đầu đơn giản thế này. Lúc túng thiếu đói kém vay
mượn vừa khó, vừa canh cánh lo ngày trả, ấy là chưa kể lãi mẹ đẻ
lãi con gặp lúc sa cơ lỡ vận có khi suốt đời đầu tắt mặt tối không
đủ trả nợ. Còn tự làm lấy ruộng nhà thì lưng vốn ít, lại phải đợi
trông và biết đâu "ba tháng trông cây không bằng một ngày trông
quả" đến lúc miếng ăn đến miệng gặp một cơn gió, một trận mưa rào
hay ngày nắng hạn mà trái vụ thì mất như chơi. Chi bằng cắp nón đi
làm thuê vừa nhẹ nhàng, vừa có miếng ăn ngay. Đôi khi bớt xén ăn
xin ăn nài nắm xôi, quả chuối, vốc lạc, nắm cháy, củ khoai mang về
cho bố mẹ hoặc chồng và con cái ở nhà là tất cả tươi vui bừng sáng
và ai cũng phấp phỏng ấp ủ hy vọng ngày hôm sau, những ngày hôm sau
nữa sẽ có, sẽ lại có niềm sung sướng như thế. Lâu dần thành quen.
Người ta có thể bỏ ruộng chứ không thể bỏ nghề làm thuê.
Ai cũng náo nức đi làm thuê thì đành chịu khinh rẻ biết làm thế
nào. Lúc giáp vụ đã bị rẻ rúng chê ỏng chê eo huống hồ lúc đã vãn
việc. Hôm nào cũng dăm bảy trăm người đi "đón", khi chỉ dăm ba chục
người "đắt" còn là ế lũ lượt. Nhưng đêm nào cũng đi. Đi tất cả
làng. Ngay nhà ông đồ Khang, trừ có ông già yếu và đã mang tiếng là
ông đồ, vợ chồng anh cả, vợ Tính, vợ Sài, và cả cu Sài cũng đi. Đêm
nào cũng khoảng nửa đêm là ông đồ tỉnh dậy, đun nước ủ tích nụ vối
và hút thuốc lào chờ khi nào nghe được nghe tiếng ơi ới gọi nhau ở
xung quanh hoặc tiếng nói oàm oàm như lội nước của vợ chồng nhà
Mồng là ông chỉ cần hỏi khẽ khàng: "Bà đồ đã thức chưa? dậy uống
hụm nước cho ấm bụng" là bà đồ nhổm ngay dậy. Vợ Sài cũng lặng lẽ
ngồi dậy. Khi bà đồ chít khăn, khoác chiếc áo tơi, ngoài hàng dây ở
phía trước, bà thắt thêm một dây bằng sợi đay ở ngang lưng, rồi
xách đôi dép bằng mo cau xỏ vào chân. Gọi là xỏ, thực ra chỉ cần
nhét vào một ngón chân trỏ vào cái quai cũng bằng "lưỡi mèo" bao ở
buồng cau khi chưa bung thành hoa. Xong xuôi, bà ngồi vào bên ổ,
trải lá chuối khô nơi ông đồ và thằng Sài vẫn nằm lăn lóc, xoay
ngang, xoay ngược. Khi bà uống xong chén nước ông đưa, liền quay
vào lay gọi "Sài, Sài dậy. Sáng rồi". Cu Sài mở mắt ngồi dậy đỡ
chén nước bước ra khỏi nhà, ngửa mặt súc miệng òng ọc rồi quay vào
vê thuốc nhồi vào nõ, động tác thành thạo như một người lớn. Rít
xong hơi thuốc khi hai mắt còn lờ đờ, miệng há ra thở dốc thì bà
choàng lên người nó chiếc bao tải. Vừa buộc bịu cho con bà vừa nhắc
"Cầm lấy đôi guốc mà đi" - "Sưng hết cả chân rồi" - "Cầm đi lúc chờ
ngồi vẫn chả ấm chân! Nặng nhọc gì". Trong khi ấy, vợ nó vẫn phong
phanh một chiếc áo cánh, đi ra đầu bể nhổ miếng thuốc nhuộm răng,
chiết bằng lọ nước nước điếu đã cất sẵn từ tối hôm trước rồi rửa
mặt, chải tóc,vấn khăn và ngồi sẵn ở góc bếp chỗ đã có ba chiếc vồ
cho ba người, thêm hai chiếc liềm và hai cái dầm làm cỏ của nó là
mẹ chồng. Chỉ cần mẹ và chồng ra khỏi cửa là nó đã cầm liềm, vác
đập lên vai, ra ngõ trước.
Bao giờ bước ra cửa, bà đồ cũng hỏi: "Nhà Tính đã dậy chưa con".
Khi nghe tiếng "rồi ạ" bà mới đi. Bà đi thong thả và mắng con dâu:
"Còn sớm, nhà Sài đi đâu mà vội thế". Bà đi chậm lại, vợ Sài đi
chậm lại. Nhưng thằng Sài hoặc không đi nữa hoặc chạy vọt tít tận
đâu đâu đến khi không còn nghe, không nhìn thấy "con bé ấy", nó mới
thôi.
Làng lũ lượt kéo nhau đi. Lúc đầu còn gọi nhau í ới, còn hỏi han
nhau về sau càng gần đến nơi càng im lặng như những cái bóng lầm
lũi chuyển động. Dường như ai cũng đang nghĩ đến cái bí quyết gì
đấy để khỏi ế ẩm. Cả hàng dăm bẩy trăm người đi và chạy ba cây số,
khi đến chân đê không ai bảo ai đều dấn lên ào ào như cơn lốc cuốn
lên để tranh chiếm chỗ ngồi. Những chỗ có thể gọi là "ngon" đã hết,
họ dúm dụm vào từng khóm, trông lặng lẽ như những mô đất. Ai mới
qua đây lần đầu vào những trăng suông lạnh lẽo dễ hoảng hốt tưởng
mình lạc vào một bãi tha ma chi chít những ngôi mộ đắp đất cày ải.
Những cái "mô" ấy ắng lặng khoảng vài sau mới tở ra xáo xác. Đầu
tiên là tiếng ngáp dài của ai đó: "ối giờ...ơi...ơi bây giờ được mẻ
ngô rang mà nhá nhẩy". Rồi loáng thoáng những tiếng pha trò rời rạc
chìm trong giá buốt. Những đốm lửa từ những chiếc mồi rơm loè đỏ
loè lên, những hơi thuốc lào phả ra hoà với hơi ấm của lửa như là
những tín hiệu lay gọi mọi người tỉnh táo, đã đến giờ "kiếm ăn"
rồi. Phải còn trên dưới một giờ nữa, nghĩa là lúc có thể nhìn rõ
mặt người, mới xuất hiện những người chủ vừa đáng nguyền rủa, vừa
kính yêu của họ. Trong khoảng thời gian chờ đợi ấy, mặt đê bỗng xôn
xao như họp chợ. Cánh đàn ông thì tán phét, nói tục, bàn chuyện làm
các món ăn ngon và vô vàn sự sung sướng mình đã từng giáp mặt, từng
chứng kiến ở các nhân vật giàu có, các làng xã trù phú. Những người
đàn bà lặng lẽ nhai vỏ quạch, xin nhau vôi, sẻ cho nhau lớp sương
mù xuyên tới con đường từ giữa chợ Bái lên đê. Những ông bà chủ
thường xuất hiện từ đấy. Ngong ngóng chờ đợi mãi rồi cũng đến cái
phút hồi hộp và thất vọng, mừng rỡ và cáu giận. Thoạt đầu bỗng
nhiên cả mấy trăm con người xô cả dậy như sóng đùn đẩy chen chúc,
chửi bới, la hét nhau để dấn lên, lao xấn tới con đường lên dốc.
Khi tiếng quát của đàn ông, tiếng chửi chanh chua của đàn bà, tiếng
khóc thét của trẻ con bị xéo đạp chưa dứt lại thấy từ giữa cái mục
tiêu mà mọi người nhào tới đó tiu nghỉu mà chùng xuống, mà lặng
thinh kéo vồ quay lại. Thì ra một cô gái xinh đẹp lại muốn làm công
việc đào thải buổi sớm ở phía ngoài đê. Chắc vừa ức bị nhầm, vừa
giận cái vẻ đẹp còn mập mờ kia làm chuyện trái khoáy, một lão đàn
ông cất giọng thật to chửi tục. "Đ. mẹ nó, tội tình gì chưa bảnh
mắt đã dẫn xác ra tận đây để hàng trăm người mừng hụt". Một giọng
con trai đế: "Ông ơi thích thì theo cô ấy đi. Công hôm nay đến đồng
rưỡi, hai đồng chứ không ít" - "Đ. mẹ con cái nhà ai đấy". Nếu
không có một đợt sóng mới lại ào lên có nhẽ đám thợ Hạ Vị và cánh
Trung Thanh đã vác vồ mà choảng nhau. Lần này thì có thật. Cả hàng
chục người vừa đàn ông, vừa đàn bà thững thờ đi tới đám đông. Để
đáp lại sự nhốn nháo xô đẩy, những ông bà chủ đưa mắt khinh khỉnh
nhìn lướt trên đầu mọi người. Họ cứ đi từ đầu đến cuối không thèm
hỏi ai, không thèm trả lời hàng trăm người đều nhao nhao "ông cần
gì" bà muốn thuê đàn ông hay đàn bà ạ". Nhìn ngắm hết lượt, lúc
quay lại các ông bà chủ mới lên tiếng như ra lệnh:
- Bảy người đạp. Hai người đánh phân.
- Bốn người đàn ông tát ao, một chị cắt cỏ.
- Ai biết vực nghé hẩy.
Đủ loại công việc từ rào giậu, quét vôi, bắc cầu ao, xẻ rãnh đến
làm cỏ, trát vách, vạc bờ cuốc góc... Ai ới lên cần công việc gì
lập tức từng đàn, từng đàn lốc nhốc chạy theo bâu quanh người ấy
nhao nhao giành nhau.
Thằng Sài cũng là loại nhanh. Nó tì vào cái chuôi vồ cao bằng người
nó cũng đánh thoắt đã len đến, luồn dưới nách mọi người lên trước,
một chân đứng trên quả vồ, một chân kiễng lên án ngữ ngay trước mặt
người chủ. Giá những người làm thuê biết bảo ban nhau một tí, biết
kìm nén sự thèm thuồng một tí, biết dửng dưng xem rẻ đồng tiền, bát
gạo một tí thì từng người đỡ bị chê bai, cả đám người đêm nào cũng
đằm mình trong sương muối ở mặt đê đỡ bị rẻ rúng khinh thường.
Người lớn đã ế ẩm ai họ thèm hỏi han gì đến các lũ trẻ như thằng
Sài thì rất đắc chí là nó đã được người ta thuê, một mình theo một
luồng không phải ai "rước" cũng đến bờ cùng với người lớn. Nó biết
đâu chỉ có ngày giáp vụ, người ta cần đập "chạy hanh" và cái ngày
công đầu tiên của mẹ nó các anh con nhà cậu Hồng kèm hai bên, mỗi
người "ăn" sang nửa tay vồ là quá nửa luống của nó. Dù đã năm đêm
nay nó đều ế, có hôm bà mẹ phải vì con mà ế theo, nhưng còn niềm
kiêu hãnh đã một ngày đi làm thuê, nó còn hy vọng. Bà đồ đã nhờ
được người kèm con dâu đi vơ cỏ theo bừa. Bà chờ mãi đến sáng bạch
nhật mới có người bằng lòng bà kèm theo thằng bé con. Bà cuống
quýt: "Sài đâu. Đầu rồi Sài. Nhanh lên. Mày cứ dán mắt ở tận đâu
ấy". Thằng Sài vác vồ chạy về bên mẹ. Người chủ lạnh nhạt quay đi:
"Cắn chưa vỡ hạt cơm đòi thuê mướn". Bà đồ vội níu lấy tay người
kia van vỉ: "Bác ơi, cháu nó bé hạt tiêu, nó vẫn vào làm trong này"
- "Có ai hoài cơm, mới mượn con nhà bà" - "Thôi thì không công sá
gì, bác cho cháu nó hai bữa cơm người lớn làm được tám chín" "Hai
bữa! Hào chưa đầy bơ gạo con bà lèn hai bữa lại chả hết hai bơ, hoá
ra còn quá công người lớn" - Chả nhẽ bà để cháu nhịn từ giờ đến quá
trưa. Hay bà chiết công tôi ba xu, cho cháu nó theo. Thêm đũa thêm
bát" - "Có mà thêm lại chả "đánh" tì tì thủng nồi trôi rế. Vậy là
hai người bốn bữa, bốn bơ gạo với sau xu tiền công. Thôi năm xu.
Thương tình mẹ con bà tôi liều chứ ai dở hơi đi rước cái của nợ này
làm gì".
Đến nhà bà đồ theo chỉ vào bếp gạt tro bắc nồi cơm thì người chồng
bà ta đứng ngắm từ đầu đến chân thằng Sài nem nép ở chỗ bể nước. Mẹ
mở vung nồi cơm, cái làn hơi gạo mới oà ra ngào ngạt cùng với mùi
dưa kho tép thơm lừng lẫy làm nước chân răng thằng Sài tứa ra nhưng
nó thậm thột không dám nhìn vào chỗ mẹ đang xới cơm. Người chồng
hỏi trống không... "Thằng cu con này ở đâu đây?" - "Con bà lão.
Thằng này cuốc ở đồng thốp được" - "Có cuốc cái mả nhà mày. Đ mẹ đồ
mắt mù" - "Cha bố nhà anh nói gì đấy. Cả đêm hành hạ người ta, bảnh
mắt vẫn chỏng dái lên ngủ mà còn hạch sách" - "Tiên sư con đĩ. Ăn
nói thế à". Hai vợ chồng xô vào nhau, kẻ túm tóc thụi và chửi,
người xé áo và kêu la. Những nhà bên cạnh chạy đến đứng ở cổng
nhìn. Họ ra hiệu cho mẹ ocn bà đồ rút vồ, xách len lén ra khỏi
cổng.
Phía sân sau mùi cơm gạo quyện với mùi tép kho dưa toả lên nghi
ngút như cuốn lấy tâm trí thằng Sài. Nó đã định ngồi xuống so đũa
theo lời bà chủ nhưng sự việc xảy ra nhanh quá, bà đồ phải ụp bát
cơm xới giở xuống nồi, lặng lẽ đứng lên, cái phút ấy thằng Sài muốn
ứa nước mắt vì bị khinh rẻ, nó hiểu thế nào là thân phận của kẻ đi
làm cốt chỉ để kiếm lấy một bữa cơm.
Nhưng đến nửa đêm, bà đồ và những người con dâu vẫn phải đi. Chỉ
trừ thằng Sài "đếch thèm đi làm" còn cả làng vẫn lếch thếch kéo
nhau đi. Có người đã ba bốn ngày bị ế, vợ chồng con cái mỗi ngày
được lưng bát cháo cám, cả ngày không buồn bước nửa đêm cố mà đi.
Đi để kiếm lấy một bữa. Thật khốn khổ cho cả làng. Trời đang yên
lành bỗng trút nước ào ào. Cả khối người chết lặng trên mặt đê chờ
sáng lao vào các quán chợ trống cả bốn phía. Họ nép vào nhau, đến
rõ mặt người mới ngớt mưa. Không ai thèm ngó ngàng đến ai họ đành
lũ lượt kéo nhau về.
Đêm đó, xã Hạ Vị họp ở đình làng Hạ Vị. Gọi là đình nhưng chỉ còn
có mái và hậu cung. Bốn xung quanh đã phá lấy gạch đi xây đồn Trung
Thuỷ cho Tây từ mấy năm trước. Ngọn đèn măng xông treo giữa đình từ
xa đã thấy ánh sáng rực rõ đầy vẻ hấp dẫn của nó. Suốt từ giữa
trưa, nhữgn anh cán bộ tuyên truyền vác loa sắt tây trèo lên những
cây bàng, cây gạo ở mỗi xóm gào đến đặc cả cổ: "A lô, a lô xin toàn
thể các ông, các bà, các đồng chí nam nữ thanh niên, các em thiếu
niên và nhi đồng đến tập trung tại đình làng Hạ Vị để nghe huyện về
phổ biến những quyết định khẩn cấp. A lô, alô...ô...ồ..." "Toàn thể
nhân dân chú ý, chú ý tối nay huyện về xã ta phổ biến những quyết
định quan trọng, nếu ai không đi phải chịu hoàn toàn trách nhiệm
sau này. A lô, alô...ô...ồ..." Đám trẻ con bâu dưới gốc cây ngửa
mặt như hứng tới từng lời rơi từ trên ngọn xuống. Và khi anh cán bộ
tuyên truyền xuống đất, lũ trẻ lốc nhốc chạy theo thi nhau sờ vào
cái loa sắt tây. Đứa nào làm được việc ấy, chạy quay lại hý hửng
tưởng như nó phải hướng niềm vui sướng đến hết cả đời. Những đứa
trạc tuổi thằng Sài không chạy theo, chỉ đứng ở đầu ngõ nghe và nhớ
không sót một lời để rồi qua chúng, từ các cụ già đau yếu đến các
bà nạ dòng bận mọn đều cảm thấy cuộc họp tối nay là vô cùng hệ
trọng.
Sự đồn đại của đám trẻ không hề sai ngoa, láo lếu. Cuộc họp toàn xã
tối nay đã công bố những quyết định gắt gao của uỷ ban kháng chiến
hành chính của xã Hạ Vị. Kể từ ngày mai, tất cả mọi công dân của xã
không được đi làm mướn ở bất cứ nơi nào. Không được đi buôn bán và
làm thuê nghề phụ như giấy thông hành đã cho phép, giấy thông hành
đều không có giá trị. Những người đang ở xa, các gia đình tìm cách
đi báo để họ có mặt ở địa phương trong vòng một tuần lễ kể từ hôm
nay. Tất cả các ngành, giới, các đoàn thể nam phụ lão ấu đều tập
trung vào nhiệm vụ sống còn: chống đói và cứu đói. Cách mạng rồi,
giải phóng rồi, không thể để xã Hạ Vị diễn lại cảnh chết đói, chết
rét, như năm ất dậu. Ai chống lại mệnh lệnh này sẽ bị coi là kẻ
phản động và bị trừng trị đích đáng. Cái quyết định vừa đanh thép
vừa thống thiết. Người đọc quyết định là xã đội trưởng có bộ mặt
lạnh lùng trang nghiêm, cái giọng hùng hồn trang nghiêm khiến người
nghe không thể coi thường. Quyết định của uỷ ban như trời giáng,
hất bỏ đi cái việc từ xưa đến nay hàng ngày nên làm sao có thể bỏ
qua được. Lấy gì mà chống mà cứu đói. Khoai lang thì sương táp chưa
lại cây, ngô đỗ chưa nhú lên khỏi mặt đất! Hay xúc đất về mà ăn với
nhau. Ai cũng thắc mắc chưa thông, cũng lo sốt vó và ấm ức với cái
quyết định tai quái nhưng cả hàng nghìn con người vẫn ngồi chật
ních trong đình ngoài sân, ngồi và đứng xuống cả dệ cỏ, đứng cả
ngoài đường. Ngồi đâu, đứng đâu cũng nghe thấy cả, cũng tức tối cả
nhưng ai cũng chờ, cũng mong đợi một người nào đó sẽ nói hộ nỗi ấm
ức trong lòng mình. Chỉ đứng và ngồi thin thít mà ước. Ước gì có
người nói, nói quá lên một chút cũng được, nổi khùng và phá bĩnh
cũng được, chúng tôi sẽ hoan hô nhiệt liệt, sẽ ủng hộ mạnh mẽ,
chúgn tôi chỉ dám ủng hộ thôi. Thông cảm, tôi không nói ra được.
Nói ra nhỡ không phải đầu lại phải tai. Giá một thân một mình còn
dễ. Còn vợ con, mấy miệng ăn đều trông vào mình.
Ai cũng biết tính toán chi li, tất cả đều khôn ngoan, lấy đâu ra kẻ
dại dột thắc mắc hộ mình.
Quyết định đọc xong một lúc khá lâu, xã đội trưởng giải thích như
có ý "lấp chỗ hổng", chờ ai đó. Dân làng ai cũng lặng im rất trật
tự như lắng nghe chăm chú nhưng là cũng để chờ đợi một cái gì đó.
Khi biết không chờ vào cái gì nữa, tiếng ca thán; lời trách móc nổi
lên, lúc đầu còn rì rầm ở ngoài chỗ tối, sau lan vào đến giữa đình,
ồn ào như họp chợ. Lúc ấy, Hà cùng với mấy người lạ mới từ đâu
về.Ông mặc bộ quần áo cánh gụ, phía ngoài khoác áo Mỹ chun ở giữa
và quàng cổ bằng chiếc phu la bằng len ô màu nâu. Ông đứng chỗ sáng
nhất, tươi cười rất có duyên khiến các cụ bảo cái miệng và hàm răng
cười ấy mà không phải là người hoạt động thì có đến hàng trăm cô
gái phải lăn xả vào mà chết đứng chết ngồi. Ông chưa nói gì, hàng
nghìn người đã im tăm tắp. Làng thừa biết chính ông là người đẻ ra
quyết định này, và cũng lại ông có thể xoá bỏ nếu ông thấy không
hợp ý dân, không đem lại lợi ích gì cho dân. Ngoài ông, ai bàn lùi,
ai phá ngang chỉ tổ mang vạ. Ông Hà chỉ nói mươi lăm phút rồi hỏi
mọi người còn gì chưa thông, còn gì thấy khó, cứ nói. Có nói hết
với chính quyền những ý nghĩ của mình thì công việc mới chạy. Nhắc
đi nhắc lại ba lần vẫn thấy im lặng như tờ, ông nói:
"Thế là coi như toàn dân không ai phản đối quyết định của uỷ ban.
Ai làm sai quyết định này là phản lại nguyện vọng của toàn dân, sẽ
bị nghiêm trị". Lúc ấy Tuy "cau con" suốt năm vào Thanh, lên Thái,
lên Tuyên buôn bán cau con, là người cũng "lợi khẩu", đứng dậy "rào
rỡ" bằng những lời hết sức văn hoa, lễ phép khiến ông Hà nhăn mặt
yêu cầu anh ta nói thẳng điều định nói.
- Vâng, tôi xin phép hỏi ông chủ tịch, như thế này có sợ xâm phạm
đến quyền tự do dân chủ của mỗi công dân mà chính phủ ta đã đem lại
cho toàn thể nhân dân lao động không ạ?
- Tôi nói ngay là không xâm phạm. Vì anh có quyền làm ăn, buôn bán
thì chính quyền cũng có quyền bắt mọi người công dân không được bỏ
ruộng.
- Thửa ruộng đất nhà chúng tôi đã gieo trồng cả, lúc rảnh rỗi nhất
là tháng ba ngày tám đói rách...
- Anh chưa làm gì hết. Cả hai sào rưỡi vườn anh đang bỏ cho cỏ
mọc.
- Báo cáo ông chủ tịch đấy là trong vườn, quyền của mỗi gia đình
người ta muốn làm gì thì làm, từ xưa đến nay vẫn thế.
- Đừng lầm chúng ta chỉ có ruộng công điểm. Mà ngay ruộng tư cũng
không cho phép được bỏ hoang hoá.
Thấy đã có vẻ yếu thế. Tuy nói giọng nịnh, thân tình.
- Được ông chủ tịch cho phép, chúng tôi cứ mạnh dạn nêu chung như
thế chứ không có ý gì. Xin ông cho tôi hỏi thêm.
- Anh cứ nói tự nhiên, nói hết sức thoải mái, chúng ta tranh luận
với nhau tự nhiên.
- Nếu vợ con chúng tôi ở nhà đảm nhận được việc đó để chúng tôi đi
kiếm ăn lúc này, cũng là nhiệm vụ cứu đói.
- Trước mắt tập trung toàn bộ nhân lực đã. Và, anh nhớ là quyết
định đã nói rồi không ai làm thay cho người khác nếu người đó còn
sức lao động. Những biện pháp sau này mới thấy rõ trách nhiệm của
từng người trong từng công việc.
Tuy ngồi xuống một lúc thì một ông đầu chít khăn nâu vá, khoác bao
tải đứng phắt dậy:
- Tôi chưa thấy ai cấm dân chúng đi làm kiếm miếng ăn như chính
quyền hiện nay. Tưởng giải phóng rồi không phải kìm kẹp, ai
ngờ.
- Thật không ai ngờ cả tuần nay, không ai họ thuê, cả nhà phải ăn
cháo cám mà ông còn tiếc thân phận của một người bị rẻ rúng, ế ẩm
đến thế.
- Độ một tháng nữa không ai thuê mướn cũng không ai bắt tôi phải bỏ
việc đó.
- Chính quyền sẽ bắt ông phải ở nhà.
- Thế chính quyền này là phát xít à.
- Không. Vì không là phát xít mới không cho phép ai được quyền chết
đói, chết rét, chết lúc nào không ai hay.
- Tôi còn sức lực, tôi phải làm thuê làm mướn kiếm ăn, không ai bắt
tôi được.
- Ông còn sức lực thật không?
- Sao lại không?
- Thế thì càng tốt. Tôi sẽ bắt ông ở nhà.
- Gia đình tôi chết đói ai chịu trách nhiệm.
- Chính quyền xã này sẽ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Ngay ngày
mai ông đi cách đây mười lăm ki lô mét gánh cho xã một tạ
giống.
- Người khác cứ làm trước, chúng tôi làm sau.
- Thật không.
- Lại chả thật.
- Có lẽ nói đùa với ông như thế là đủ rồi đấy. Tạ "giống" ngày mai
ông đi gánh tức là tạ thóc cứu tế cho gia đình ông đấy. Đến đây
chắc ông không phản đối. Nhưng nếu thực sự là tạ giống của xã mà xã
yêu cầu ông, ông cũng không được phép phản đối. Tại sao những năm
dưới chính quyền tổng Lơi ông ngoan ngoãn thế. Việc phu phen hầu hạ
cứ răm rắp, ông quen chỉ biết làm tôi tớ, ăn xin ăn nhặt, ngửa tay
xin việc kiếm miếng ăn. Còn lúc tự mình làm chủ lấy công việc, làm
chủ lấy ruộng đất, làm chủ lấy đời mình thì lại phá ngang, ăn nói
chấp chửng. Tôi xin nói ngay là từ nay ông không thể chống được bất
cứ một quyết định nào của chính quyền, trừ phi mệnh lệnh ấy sai
lầm. Ngay một tạ thóc cứu tế, chính quyền cũng phải có mệnh lệnh
cho gia đình sử dụng từng bữa số lượng bao nhiêu, ăn cách nào chứ
không thể để ông tự tiện sử dụng bừa bãi để độ ba ngày sau cả nhà
lại ăn cám.
Sau cái phút bực bõ với một người suốt đời chỉ thích ăn vay, làm
thuê, ông Hà công bố tất cả những công việc phải làm kể từ ngày
mai. Từ ngày mai mỗi nhà sẽ trồng bao nhiêu ụ khoai lang bao nhiêu
gốc bầu trắng, bao nhiêu bè và ruộng rau muống! Từ ngày mai sẽ phải
đào các hố tiêu, mua nồi sành đựng nước tiểu, phân lợn phân trâu,
tro và lá tre lá cây để làm phân xanh sẽ được hướng dẫn và tổ chức
làm đồng loạt. Từ ngày mai, mỗi đoàn thể, mỗi nghành giới phải làm
những công việc gì! Và, những ai phải cứu tế thóc, khoai ngô do nhà
nước và các xã bạn tương trợ, những ai vào các tổ đi nhận thóc của
nhà nước và về xay giã lấy tỷ lệ phần trăm vân vân. Bao nhiêu công
việc của hàng mấy nghìn con người cứ đâu vào đấy. Quan trọng là một
tổ chức chặt chẽ đã được chuẩn bị kỹ lưỡng, chính xác tới tổ, từng
xóm. Thành ra đầu cuộc họp là nỗi khổ, ấm ức, cuối cuộc họp đã là
sự sung sướng thoả mãn. Đã bảo mà. Ông Hà đã làm việc gì thì cứ đầu
vào đấy. Có thể, người ta mới được tỉnh, được huyện kính nể, cái gì
cũng ưu tiên cho nhân khẩu ít nhất cũng được mười cân thóc thì có
thức suốt đêm nay mà khen ông chủ tị đã thấm gì. Riêng thằng Sài,
nhìn chú vừa kính phục vừa hãnh diện nhưng không phải nhờ chú mà ba
ngày sau, khi các đội thiếu nhi được tổ chức, nó đã được bầu làm
liên đội trưởng của ba xóm thuộc thôn Hạ Vị. Người lớn, trẻ con
làng này quý nó ở nhiều nhẽ; gặp ai nó cũng chào hỏi, thưa gửi rất
lễ phép. Trông mặt mũi khôi ngô, lại có vẻ lành dễ thương, nhưng
lại rất tháo vát ,nhanh nhẹn và chịu khó. Song cái điểm quan trọng
hơn là nó chăm học và học nhất làng, lớp bốn. Nó nói và viết đâu ra
đấy. Quyển sách bài tập của lớp bốn nó thuộc từng con số, từ đầu
đến cuối. Những buổi thiếu nhi tập trung tự học một hai ngày nó nói
còn hay hơn cả anh phụ trách. Dù hay hơn các anh, nó vẫn ngoan
ngoãn nghe các anh bảo ban dạy dỗ nên các anh cũng quý nó. Mỗi khi
có người phát biểu "Bạn Sài chê vợ không xứng đáng làm liên đội
trưởng" thì các anh phụ trách đều tức giận và bảo: "Em nào nói thế
là vô kỷ luật".
Không đêm nào liên đội của Sài không tập trung đi hô khẩu hiệu rồi
về sân nhà ông Cần học hát, học múa. Sài còn dạy các bạn học hành
làm tính, học viết chữ. Liên đội của Sài làm gì cũng đông đủ, được
khen, được giải nhất. Dăm bảy tháng sau toàn xã Hạ Vị đã "ăn nên
làm ra", các đoàn thể tiến rầm rập, Sài là một trong năm thiếu niên
tiêu biểu nhất của toàn xã trở thành thiếu niên tháng 8. Giữa cuộc
mít tinh của toàn xã Sài dẫn đầu đoàn Thiếu nhi tháng lên đứng giữa
khán đài để nhận danh hiệu vẻ vang. Chú Hà đại diện cho huyện và xã
quàng khăn đỏ cho các cháu. Khi chú đến bên, Sài thấy khăn đỏ cho
các cháu. Khi chú đến bên, Sài thấy run lên vì sung sướng. Sài chưa
biết nói câu gì, chú đã cúi xuống quàng khăn vào cổ cho cháu và nói
nhỏ:" Cấm được bỏ vợ đấy nhé". Không ngờ cái câu đó như một tảng đá
khổng lồ đè lên người Sài khiến cậu bé 14 tuổi ấy đứng chết lặng và
khi bạn đẩy lên hứa hẹn cậu mới như tỉnh ra nói được một câu:
"Chúng cháu xin hứa suốt đời thực hiện lời căn dặn của các chú
trong buổi tối hôm nay". Các bạn đều ngơ ngác vfi những buổi tập
duyệt của Sài suốt mấy ngày nay cho lời hứa hẹn của mình không hề
có câu ấy!