Nàng đọc cẩn thẩn từng chữ một, mỗi chữ đều rất cần thiết và quý
giá, vô cùng quý giá, cố gắng đọc và trông thấy đúng những gì chàng
nhìn thấy, và nhìn thấy theo cách của nàng, do những ký ức từ Los
Angeless. Nhưng tại Virginia mọi thứ đều tốt đẹp hơn bất cứ cái gì
nàng nhớ lại, và nàng phải mở rộng trí tưởng tượng để nhìn những
ngọn đồi trùng điệp và những khu vườn và lâu đài là căn nhà của
chàng, và đặc biệt nhất là ở trong những căn phòng của chàng, tại
đó một ngày nào đó nàng sẽ sống với chàng. Chàng kể cho nàng mọi
thứ, từ giường tủ, màn cửa, thảm trên sàn nhà cho tới cái lò sưởi
trong phòng khách. Chàng có riêng cho chàng hai căn phòng - và cũng
cho nàng nữa - và hai phòng này to gần như một cái vườn Nhật Bản,
và những cửa sổ và sách dọc theo tường lò sưởi, và những chiếc ghế
bành, cái nào cũng to, đủ cho cả chàng và nàng cùng ngồi. Nàng đọc
đi đọc lại những trang nói về các căn phòng, bởi vì đây sẽ là nhà
của nàng, và nàng muốn quen thuộc với những phòng để khi nàng bước
vào, nàng sẽ không lạ lùng bỡ ngỡ. Cha mẹ chàng đều mạnh khoẻ.
Chàng chưa kể cho cha mẹ về nàng. Nhưng nàng đừng sợ, bởi vì cha mẹ
chàng tốt với chàng hơn bao giờ hết. Cha mẹ chàng sẽ đón mừng nàng,
trước hết vì chàng, và sau đó cũng chính vì nàng nữa. Nàng phải
mang theo nhiều bộ kimono thực đẹp, dĩ nhiên không phải để mặc đi
ra đường, nhưng là ở trong nhà.
Cuối cùng nàng tắt đèn, và cuộn tròn bên dưới chiếc mền cùng với lá
thư ôm vào ngực, nàng lặng lẽ khóc một lúc lâu, bởi vì nàng quá xa
cách chàng, quá cô đơn nhưng cũng quá hạnh phúc.
° ° °
Bây giờ, ngay lập tức, chàng phải nói cho cha mẹ biết. Khi chàng
nghĩ đến cha mẹ, có nghĩa là chàng nghĩ đến mẹ. Người đàn ông dịu
dàng là cha chàng có thể nói chuyện được với bất cứ sự hợp lý nào.
Chàng lang thang sau khi chia tay với Monicạ Câu hỏi là, chàng nên
nói với cha trước và hy vọng được cha giúp đỡ, hay là chàng nói với
mẹ trước, và nói vắn tắt vào thẳng vấn đề, coi như những gì chàng
đã làm phải được chấp nhận? Chàng cân nhắc mối liên hệ với người
đàn ông và người đàn bà là cha mẹ chàng. Chàng trực giác hiểu ngay
sự liên hệ ấy như thế nào. Trong suốt đời, với những vấn đề chàng
cân nhắc cùng một câu hỏi như chàng đang tự hỏi ngày hôm naỵ Khi
chàng còn nhỏ và có lẽ vì hèn nhát, hoặc bởi vì chàng bao giờ cũng
ao ước mãnh liệt cái chàng muốn nên chàng coi sự từ chối là không
chịu đựng được, thì chàng thường nói chuyện với cha, và hai người
cùng đến gặp mẹ chàng. Khi chàng đã trưởng thành, chàng cảm thấy
bằng trực giác và kinh nghiệm rằng cha chàng không giúp được gì cho
chàng. Mẹ chàng sẽ tức giận nếu chàng nhờ cậy cha chàng trước.
Chẳng hạn như lần chàng rất muốn có một chiếc xe hơi mui trần khi
chàng còn đang học đại học, chàng đã nói thẳng với mẹ. Chính cha
chàng không tin chàng nên có xe hơi, và lòng hoài nghi ấy làm mẹ
chàng cương quyết.
Bà tuyên bố, "Tôi nghĩ James nên có chiếc xe ấy. Nó cần phải được
độc lập."
Chàng thở dài thực sâu. Phải, bây giờ chàng cũng có một nhu cầu như
vậy. Chàng sẽ nói thẳng với mẹ ngay lập tức, trước khi điện thoại
của người trong thành phố gọi báo tin cho mẹ chàng, và mẹ chàng sẽ
lạnh lùng với chàng vì chàng không nói cho bà biết trước.
Chàng nhẩy lên những bậc thang bằng đá trắng, vào cái tiền đình có
những cây cột lớn, rồi bước vào nhà, lớn tiếng gọi, "Mẹ Ơi, mẹ
đâu?" Bà rất thích nghe thấy chàng gọi bà.
Một tiếng trả lời từ đằng xạ "Ở đây! Ở trong nhà kiếng."
Căn nhà có một nhà kiếng kiểu cổ hình bát giác, do ông nội chàng
xây đằng sau nhà, về phía trái, và mở ra phòng ăn hiện tại.
Bà đang đào những cái chậu khổng lồ trồng cây dương sỉ, tay đeo
găng, chiếc xẻng bằng đồng sáng rỡ. Mặt trời huổi sáng chiếu xuống
những cây dương sỉ và cúc.
Chàng kêu lên, "Hoa cúc đẹp quá! To gần như cúc tại Nhật
Bản."
Bà không tỏ vẻ chú ý về Nhật Bản.
Bà nói, "Mẹ đang nghĩ chúng ta nên mở một buổi dạ vũ. Mọi người
muốn gặp con. Điện thoại đang reo mỗi phút."
Chàng nhào vào vấn đề ngaỵ "Con nên cho mẹ biết chuyện này trước
khi điện thoại khốn kiếp gọi vào. Monica nói mẹ đã biết chuyện rồi.
Nhưng con nghĩ mẹ không biết toàn thể câu chuyện. Cô ta nói bà đại
tá cảm thấy bà ta phải viết cho mẹ."
Mẹ chàng vẫn tiếp tục thận trọng đào những củ xù xì. "Con muốn nói
người con gái Nhật ấy?"
"Đúng vậy."
Bà nói bằng giọng nhẹ nhàng. "ồ, đừng coi trọng chuyện ấy. Mẹ biết
chuyện ấy như thế nào. Con cách xa nhà quá mà, và mẹ dám nói ở đấy
không có con gái Mỹ xứng đáng. Nhưng bây giờ con về nhà rồi -
"
"Khoan đã, mẹ."
Bà ngẩng lên và trông thấy mặt chàng tái xanh, miệng khô.
"Tại sao, chuyện gì vậy, James?"
"Mẹ không hiểu Dục Thủy. Đó là tên cô tạ Cô ta là vợ con."
"James Peterson!" Bà vẫn kêu như thế kể từ khi chàng còn là một đứa
nhỏ, bất cứ khi nào chàng hư quấy, khi chàng cắn đầu vú bà, khi
chàng liệng đồ chơi đi, khi chàng làm nhàu bộ quần áo vest đầu tiên
của chàng, khi chàng trốn học, khi chàng lấy một đồng đô la từ ví
của bà, khi chàng hút điếu thuốc lá đầu tiên, khi đi khiêu vũ về và
say rượu.
Chàng nói, "Chúng con đã kết hôn rồi. Con muốn đưa vợ con về nhà
ngaỵ"
Bà buông xẻng xuống và cởi bao taỵ Bà nói, "Hãy vào thư viện, và
bàn về chuyện này."
"Không có gì để bàn nữa, mẹ Ơi. Chuyện đã xong rồi." Nhưng chàng
vẫn đi theo mẹ, và hai người ngồi xuống hai bên lò sưởi.
Bà nhấn mạnh, "Hãy kể cho mẹ nghẹ" Bà ngồi đó hai tay chắp lại,
giọng nói cực kỳ nhẹ nhàng, miệng hơi mỉm cười, nhưng mắt bà -
chàng thấy mắt mẹ bệnh hoạn đau đớn.
Và chàng kể cho mẹ biết, tức giận chính mình và mẹ, bởi vì chàng là
người bị ám ảnh bởi những lỗi quá khứ, những lỗi trẻ con mà mẹ
chàng đã mắng mỏ chàng rất nhiều lần trong phòng này. Bao giờ chàng
cũng phải xin lỗi mẹ, cho mẹ biết chàng hối lỗi và sẽ không tái
phạm nữa, và chàng rất yêu mẹ. Phương cách ấy không thay đổi, sự
tức giận và nỗi đau lòng của bà, rồi đến sự tha thứ và nhu cầu bắt
chàng phải phải bảo cho mẹ biết chàng sẽ tốt lành bởi vì chàng yêu
bà.
Bây giờ chàng nhất định không theo con dường cũ nữa. Chàng chỉ nói
cho mẹ biết. Nếu bà không muốn chàng ở trong nhà này, bà có thể nói
thế. Thế giới này rộng lớn lắm, và chàng đã từng đi rất xa
nhà.
Nhưng bà không cư xử như thường lệ. Khi kể xong, chàng phải thú
nhận, ngoại trừ hai cái đêm thiêng liêng riêng tư chàng sống với
Dục Thủy, mẹ chàng đã tỏ ra rộng lượng. Bà lắng nghe, bà không tức
giận, mặc dù chàng có thể trông thấy bà run rẩy một cách nguy hiểm.
Bà đã phải phấn đấu chống lại chính bà, đã làm chàng phải cư xử dịu
dàng. Chàng thích mẹ chàng nóng giận hơn, để chàng có thể làm mạnh
sự giận dữ của chàng.
"Mẹ sẽ gặp Dục Thủy ngay," chàng nói và ghét cái giọng nói van lơn
của chàng. "Mẹ Ơi, cô ta không thực sự giống một cô gái Nhật. Cô ta
nói tiếng Anh rất hay, và biết phong tục của chúng tạ"
Bà hỏi, "Có phải máu huyết cô ta hoàn toàn Nhật Bản?"
"Phải, nhưng cô ta sinh tại California. Con đã kể cho mẹ biết rồi,
phải không?"
Chàng đã kể cho mẹ nghe, nhưng chàng muốn nói lại lần nữa.
"Nếu vậy cô ta trong giống Nhật Bản?"
"Mẹ Ơi, người Nhật không đen đủi đâu. Con muốn nói họ không giống
những người da mầu ở đây."
Bà nói chắc nịch, "Chắc chắn họ không phải là da trắng." Chàng
không thể trả lời câu hỏi này. Hai người im lặng một lúc. Rồi bà
nói, vẫn với vẻ cương quyết. "Thực là lạ lùng chúng ta phải chiến
đấu chống lại người Nhật, họ là kẻ thù của chúng ta, mới gần đây
thôi, và bây giờ con yêu cầu mẹ chấp nhận một cô gái Nhật vào nhà
này."
"Mẹ Ơi, con có thể biết mẹ cảm thấy thế nào. Con thú nhận con cũng
cảm thấy như thế. Trước khi con thực sự biết Dục Thủy, con thường
nghĩ tới vấn đề ấy. Nhưng con không đồng hóa cô ta với bất cứ ai
con biết. Cô ta chỉ là cô ta, người con gái mà con yêu, người đã
trở thành vợ con. Số phận khiến tổ tiên cô ta đến từ những hòn đảo
ở đông phương thay vì tây phương. Thí dụ, cô ta có thể sinh ra tại
Anh quốc."
Bà mẹ nói, "Tổ tiên chúng ta bắt nguồn từ Anh quốc."
Chàng nhắc lại, "Chỉ là một nhóm vài hòn đảo." Rồi chàng nghĩ đến
một cái gì và mỉm cười nhăn nhó. "Mẹ Ơi, bố nàng cũng cảm thấy y
như mẹ vậy. Ông ta không muốn nhận con làm con rể chỉ vì con da
trắng."
Bà không quan tâm đến sự kiện này. Bà không thể tưởng tượng được
bác sĩ Sơn Điền. Chàng tiếp tục trầm tư nhìn xuống tấm thảm màu đỏ
tươi.
Chàng nói tiếp, "Bà Sơn Điền rất tư cách. Bà ta thực là một người
Nhật - một trong những cô dâu gửi ảnh qua Hoa Kỳ để lấy
chồng."
Mẹ chàng bỗng ngẩng đầu lên, "Một cô dâu bằng ảnh?"
Chàng hối tiếc đã nói chuyện này ra. "ồ, đã lâu lắm rồi. Luật di
trú của chúng ta cấm người Á Châu du nhập, và đàn ông phải chọn vợ
qua hình ảnh gửi sang từ Nhật Bản, và kết hôn bằng cách ủy nhiệm
như thế."
"Cô ta không có một gia đình đàng hoàng, ngay tại Nhật Bản," bà
lạnh lùng nói. Nhưng bà cũng vẫn không quan tâm.
Chàng nghiêng người về phía trước, cùi chỏ trên đầu gối, và cố mỉm
cười, tìm kiếm một ánh sáng trên mặt mẹ.
"Vậy thì thế nào, mẹ?"
Bà nhìn vào mắt chàng. "Nếu đã xong rồi, như con nói - "
Chàng quả quyết nói, "Chuyện đó đã xong rồi."
"Điều duy nhất là - "
"Thưa mẹ, cái gỉ"
Bà không muốn nói tiếp. "ồ, không có gì. Một ý kiến ngu ngốc của
mẹ."
"Nhưng, thưa mẹ."
Ngay lúc ấy bà kêu lên một cách tha thiết. "Thôi, James, hãy để mẹ
Ở yên một lúc. Mẹ sẽ phải nói cho ba con biết. Ba con sẽ đau đớn
lắm. Ba mẹ đã nghĩ con sẽ kết hôn với một người khác ở đây - và hy
vọng là Monica - và ba mẹ đã mơ ước được trông thấy các cháu nội
chạy quanh nhà. Đây là một căn nhà quá lớn. Mẹ không có nhiều con
như mẹ muốn. Con biết đấy, mẹ không thể có nhiều con được."
"Sẽ có nhiều trẻ con, thưa mẹ." Chàng nói an ủi mẹ và rồi nhận thấy
cái lỗi lầm đáng sợ. Đến đây bà không thể kiềm chế được nữa.
"ồ, không, James!" Bà kêu lên và đứng nhỏm dậy.
"Mẹ!" Chàng hoảng hốt la lên, nhào lại ôm bà. Bà rơi vào vòng tay
của chàng và khóc mùi mẫn. Chàng không thể làm gì để ngưng cơn nức
nở của mẹ. Chàng chưa bao giờ thấy mẹ khóc, bà chưa bao giờ dùng
nước mắt với chàng, và chàng biết những giọt lệ này không phải để
bảo vệ bà. Chàng nắm tay mẹ và lẩm bẩm luôn miệng, "Mẹ Ơi, đừng! Mẹ
sẽ thấy - "
Nhưng bà vùng ra khỏi tay chàng và bỏ chạy khỏi căn phòng.
Ông Peterson đi dạo quanh thị trấn trở về, cảm thấy sự lộn xộn
trong không khí trong nhà. Chuyến đi dạo buổi sáng đều đặn kể từ
khi bố ông chết khiến ông trở thành người thừa kế duy nhất của một
tài sản lớn của một nhà mại bản vải sợi tại Nashville, Tennesse, và
một nhà nuôi ngựa tại Kentuckỵ Mỗi buổi sáng sau bữa điểm tâm, ông
Peterson thăm viếng một số bạn nào đó, không bao giờ cùng một người
trong hai ngày liên tiếp, và vì ít nói và biết chú ý lắng nghe, ông
trở thành người biết nhiều chuyện nhất của thành phố này. Mỗi năm
vài lần ông làm những chuyến đi tới những vùng khác của đất nước,
để tìm hiểu người ta nói và nghĩ gì. Sự khôn ngoan của ông đủ để
ứng cử vào Quốc hội hoặc Thượng viện, nhưng ông không bao giờ muốn
dùng hoặc chia xẻ sự hiểu biết của ông. Nếu ông được nuôi dưỡng
trong một gia đình khác thì ông đã trở thành một giáo sư triết học
rồi, hoặc nếu ông khéo dùng chữ thì ông đã trở thành thi sĩ rồi.
Nhưng ông chỉ là một người dễ thương có một cái giếng khôn mà ông
không muốn đào sâu, nhưng chỉ thích trong cái thói quen nội tâm sâu
xa của ông.
Bản chất của ông nhạy cảm đến nỗi ông mới chỉ bước vào nhà một ngày
đẹp trời như thế này, gần giờ trưa, là biết ngay có chuyện rắc rối.
Ông bước nhẹ tới tủ áo, treo áo choàng và nón lên, và bỏ cây gậy
vào một cái bình sứ Trung Hoa tại góc phòng. Ngay lập tức ông nghe
thấy tiếng bước chân của con trai ông trên lầu đi xuống cầu
thang.
James chạy tới cái vòng cuối cùng của cầu thang và nói, "Con rất
mừng ba về. Con không biết tìm ba ở đâu. Con sợ con đã làm mẹ bực
mình lắm. Mẹ khóa cửa ở trong phòng."
Cửa khoá là một dấu hiệu. Hai người nhìn nhau. James nói, "Con
không biết nói với ba thế nào."
Ông Peterson trả lời, "Ba nghĩ ba có thể đoán được."
Ông dẫn đường vào phòng khách và ngồi xuống. Ông tiếp tục, "Ba biết
chuyện này rồi thế nào cũng xảy ra. Ba mẹ từ lâu đã biết con có một
chuyện riêng tại Nhật Bản. Đại tá - "
James xen vội vô, quá bồn chồn. "Thưa ba, cái làm mẹ khó chịu là vì
con đã kết hôn với Dục Thủy Sơn Điền." Chàng ngồi vắt vẻo trên
thành của một chiếc ghế bành lớn, vô tình bất tuân một trong những
điều lệ từ tuổi thơ ấu của chàng.
Khuôn mặt tái nhợt của ông Peterson thoáng hiện sắc hồng. Ông có
nước da đẹp đẽ, và bộ râu màu cát được cạo cẩn thận, chỉ để lại một
hàm râu dệ Mí mắt của ông chỉ hé mở. Ông không nhướng mặt lên trừ
phi ông bực mình. Bây giờ ông nhướng mặt lên.
Ông phản đối. "Con, đáng lẽ con phải cho ba biết trước."
"Con không định kết hôn ngay lập tức. Nhưng bỗng nhiên việc trở
thành cấp bách phải làm. Bây giờ con vẫn nghĩ con làm thế là đúng.
Gia đình cô ta rất tốt. Ngoài ra, con không phải là loại người có
thể làm bất cứ chuyện gì khác. ít nhất con không nghĩ thế. Có lẽ đó
chỉ là cái thứ mà con đã trông thấy quá nhiều của người khác và làm
con kinh tởm."
Ông Peterson không trả lời. Mối liên hệ giữa cha con thì rất gần
gũi và tự dọ Tình cảm không xen vào đấy.
Ông dò hỏi, "Cô ta là loại người thế nào?" Bàn tay to lớn của ông
vươn ra nắm lấy cánh tay con trai, và bàn tay ông trông có vẻ tuyệt
vọng, như thể ông không dùng bàn tay thường lắm.
James lý luận. "Mẹ sẽ thích Dục Thủy, nếu mẹ nghĩ chuyện ấy có thể
xảy ra được. Ba ơi, sự thực là con rất may mắn. Chúng con yêu nhau
ngay khi gặp nhau lần đầu. Con tưởng cô ta chỉ là một người con gái
đẹp. Nhưng cô ta còn hơn thế nữa."
Ông Peterson hỏi, "Con biết cô ta bao lâu rồi?"
"Cũng không lâu lắm, nhưng đủ lâu để biết con còn có nhiều thứ nữa
để biết."
Chàng đứng dậy và đi lại trong phòng, không nhìn cha, tiếp tục nói.
"Con không thể cho ba biết tại sao hoặc chuyện ấy xảy ra như thế
nào. Năm nay con làm việc quá vất vả, nhất là sau khi thay đổi cấp
chỉ huỵ Rồi một hôm, một vài người lấy vài ngày nghỉ di Kyoto và
Nara, và con nghĩ con không được nghỉ một ngày phép nào từ nhiều
tháng rồi và thế là con đi theo. Con tình cờ trông thấy cô ta tại
cổng trường đại học. Con nghĩ chúng con đã nhìn thấy nhau vào đúng
giây phút định mệnh ấy. Có trời mới biết được! Con có thể đi ngang
qua mà không có một ý nghĩ gì. Nhưng con không bỏ đi luôn. Ngày hôm
sau con trở lại cũng vào giờ ấy, thế là chúng con gặp nhau. Con cho
ba biết không phải chỉ vì cô ấy đẹp đâu. Có lẽ cô ta có cái nét bất
thường nó làm con nhận ra được. Cô ta không giống bất cứ người con
gái nào khác mà con đã biết. Có lẽ bởi vì cô ta là người đông
phương - làm sao con biết được? Con ở bên đó hơn ba năm rồi, và có
lẽ cái đó đã bò vào máu huyết con. Con nghe người ta nói thế. Con
nghe nhiều người nói không thể lấy vợ Mỹ được sau khi đã biết và
thương một người đàn bà Á châu."
Ông Peterson ngồi nghe nhưng bất lực, miệng ông hơi thở mạnh, nhưng
ông thực là bất lực. Ông nghe và suy nghĩ. Ông biết rất rõ vợ Ông
nghĩ về việc này thế nào.
Ông nói bằng giọng yếu đuối. "Mẹ con sẽ không bao giờ thích chuyện
này. Mẹ con không bận tâm nếu là chuyện khác. Ba nghĩ đàn bà Mỹ
thường như vậy. Nhưng có một người đàn bà trẻ không phải da trắng,
bước vào nhà làm con dâu thì là một việc khác hẳn, và ba không biết
mẹ con có thể chịu đựng được việc ấy không. Thôi ba phải đi lên lầu
đây."
Ông chống người đứng dậy trên hai bàn tay rộng của ông và bước nặng
nề qua sàn nhà tới cầu thang, và chậm chạp trèo lên, cẩn thận đặt
chân lên mỗi bậc thang. Khi lên tới phòng ngủ của vợ, ông khẽ lúc
lắc cái núm cửa, và gọi:
"Mở cửa ra, mình ơi."
Ông chờ đợi, và sau một lúc ông nghe tiếng bước chân trên sàn nhà.
Rồi cửa mở và ông bước vào, thân mật ôm lấy vợ. Đầu bà tựa lên vai
ông, và ông vuốt tóc bà.
Bà hỏi, "Nó kể cho ông nghe rồi, phải không?"
"Phải."
"Chúng ta phải làm gì?"
"Mình ơi, tôi luôn luôn nói cái điều hay nhất là chẳng làm gì cả.
Cứ để mặc theo dòng đời."
"Nhưng nó sẽ đem cô gái ấy về đây!"
"Chúng ta phải để cô ta vào nhà."
"Tôi không cho phép thế!"
"Hừ, nếu bà không chịu thì là vấn đề đấy. Tôi nghĩ lúc đó nó sẽ bỏ
nhà ra đi, và chúng nó sẽ tạo lập một gia đình ở nơi khác."
Bà đẩy ông ra; ông thở dài và đứng chờ đợi trong khi bà bước quanh
căn phòng, dùng một chiếc khăn tay thơm nước hoa xoa bóp thái
dương.
"Tôi bị nhức đầu kinh khủng."
"Tôi nghĩ bà sẽ phải nhức đầu."
Ông cẩn thận ngồi xuống một chiếc ghế thấp. Ông quá to lớn đối với
chiếc ghế và cảm thấy khó khăn, nhưng ông biết đây là chiếc ghế duy
nhất ông có thể ngồi xuống trong phòng này.
Ông chờ đợi trong lúc bà tiếp tục thoa bóp thái dương, yêu thương
bà, biết rằng mặc dù lòng dạ nhỏ nhen và ích kỷ, và phong cách áp
đảo người khác, bà vẫn là một người đàn bà tốt, một người vợ tốt,
và sức mạnh của quốc gia ở trong bà. Nếu mọi người giống ông thì sẽ
không còn trật tự và có thể không còn phép tắc gì nữa. Căn nhà sẽ
là một cảnh bừa bãi và mọi người trong thành phố sẽ lợi dụng. Ông
ước ao rằng bà có thể yêu ông tha thiết hơn đôi chút nữa, nhưng một
người đàn ông không thể có một người vợ tốt và một người tình cùng
một lúc. Nếu ông hăng hái hơn, ông có lẽ đã rơi vào sự cám dỗ như
những đàn ông khác, nhưng cuộc đời sẽ rất rắc rối. Ông yêu sự bằng
an, và trong nhà ông, ông tìm thấy sự bằng an theo lối sống của
ông.
Ông dịu dàng nói, "Mình ơi, bà là một người đàn bà quá vĩ đại không
thể chấp nhận được chuyện này. Tôi biết bà cảm thấy thế nào. Tôi
cũng cảm thấy như thế nữa. Tôi thực tình muốn Monica là mẹ những
đứa cháu nội của chúng tạ Nhưng con trai chúng ta lại thích cái gì
khác thế, và đã làm xong rồi. Chúng ta không thể lấy lại được nữa.
Chúng ta phải chắp nhận chuyện ấy. Hãy tìm cách nào đó để hôn nhân
này là một thành công."
Bà đang vặn chiếc khăn mặt, thắt lại rồi cởi ra, khuôn mặt đỏ bừng
của bà vẫn còn xinh đẹp bên dưới những lọn tóc xám cuộn lại, cúi
xuống cái nhiệm vụ đáng lọ Bà hỏi, "Làm thế nào chuyện này là một
thành công được? Hôn nhân liên hệ nhiều hơn hai người. Đó là xây
dựng một gia đình. Nhưng chúng nó không được có con cái. Chúng nó
không được có con!"
Ông không trả lời. Ông hiểu bà muốn nói gì. Cái hình ảnh những đứa
trẻ lai Nhật chạy quanh trong nhà quả thực mất đi niềm tự hào. Ông
nói, giọng yếu đuối. "Có lẽ chúng nó không nên có con."
Bà cãi lại. "Tôi biết chúng nó sẽ có con. Ông chưa đọc về tỷ lệ
sinh sản ở đó hay sao? Tất cả những người đàn bà Á châu đó đẻ nhiều
như thỏ. Không, chúng ta phải ngăn cấm chuyện này."
Ông là người quá tế nhị với đàn bà nên không hỏi bà có ý định gì,
và ông không nói gì nữa. Ông ngồi đó, trông to lớn nhưng mệt mỏi,
mặt ông là cái màu xám của bộ râu dê, lông mày và tóc.
Bà nói, "Phải bắt James trở về với lý trí của nó. Nó phải tự thấy
rằng việc này không thể được."
Ông gợi ý, "Nhưng nếu nó đã kết hôn rồi thì sao?"
"Nó có thể ly dị."
Ông trông thấy cái vẻ sáng lóe trên mặt bà, một hy vọng và ý nghĩ
chợt rực sáng. Bà buông chiếc khăn tay xuống.
"Này, có lẽ chúng nó chưa kết hôn đâu!"
"Nó bảo hai đứa đã kết hôn rồi."
"Có thể là chưa. Dẫu sao Phật giáo là cái gì? Đó không phải là tôn
giáo thực. Và chắc chắn chùa không phải là nhà thờ - đầy rẫy những
tượng thần. Những người Nhật ấy chắc chắn đã lợi dụng nó."
Bây giờ ông cảm thấy buồn cho bà. "Chuyện ấy không có nghĩa gì với
James đâu. Nó muốn tin rằng nó đã kết hôn với cô ta rồi."
"Chưa đâu - nhưng hãy chờ đợi. Khi nó thấy hôn nhân này không thể
thành được - Ông không thể tưởng tượng được một người đàn bà mắt
xếch đi lại trong căn nhà này, và ngay cả trong thành phố này! Ai
sẽ mời nó tới dự partỷ Đó là lúc chấm dứt toàn thể cuộc đời của
chúng tạ"
Bà là người có thể làm bất cứ chuyện gì, dù tốt hay xấu. Ông nói,
"Mình ơi, tôi vẫn nghĩ một người đàn bà vĩ đại như bà tại đây ở
thành phố này, bà có thể giải quyết được vấn đề này. Bà làm việc
tốt nhất và người ta phải quý trọng bà."
Bà lắc đầu, cắn đôi môi run rẩy, và đưa hai tay lên tóc như che
giấu mặt. "Mình ơi, tôi không thể. Tôi sẽ coi như không có chuyện
này - và rồi cố gắng làm cho James phải nhìn thấy việc này như tôi
nhìn thấy."
Ông đứng dậy. "Hừ, tôi đã cho ý kiến về những cái gì xứng đáng. Tôi
sẽ thêm ý kiến nữa. Bà nên biết rõ con trai bà."
Rồi ông thong thả bỏ đi, cảm thấy cái nhu cầu tuyệt vọng nhất của
đời ông là uống một ly rượu mạnh.
Sau khi pha ly rượu, ông ngồi nhấm nháp thong thả bên ngoài hàng
hiên trước, suy nghĩ vấn đề này. Nếu cái sinh vật Nhật bản nhỏ bé
ấy bước vào nhà này, ông sẽ tiếp tục sống cuộc đời ông như trước.
Cô gái ấy sẽ không làm ông bực mình khó chịu gì cả. Nếu ông không
thể làm cho cả vợ và con hạnh phúc được, thì ít nhất chính ông phải
được hạnh phúc, và hạnh phúc của ông được đặt nền tảng trên ý nghĩa
của đồ ăn ngon miệng, một chiếc giường êm ái nhất nước, và khả năng
có thể ngủ ngon suốt đêm. Ông biết rằng ông đã mất đi một số xúc
cảm của con người, nhưng ông cũng không muốn bị quấy rầy.
Trong lúc ông biết ơn cái tin xấu đã loan ra và vợ Ông đã đương đầu
với tin ấy, mặc dù ông không biết với hậu quả nào. Ông biết vợ Ông
sẽ không nói thêm về chuyện này nữa. Kế hoạch của bà được đặt ra và
bà sẽ thực hiện kế hoạch ấy, và sớm muộn thế nào ông cũng biết, tuy
lúc đó đã quá trễ khiến ông không làm gì được nữa. Bà là người được
giáo dục cẩn thận để không cho một bầu không khí thù nghịch nào
trong nhà, và khi bà ngồi xuống ăn tối, bà sẽ trở thành một người
bề ngoài như thường. James cũng rất giống mẹ, và nó cũng sẽ cư xử
như thường lệ. Thời gian sẽ trở thành hàn gắn, hoặc tan vỡ thêm,
hoặc sẽ sống với sự rắc rối này trong một thời gian, và cuối cùng
sẽ sống thế trong suốt cuộc đời còn lại. Người ta có thể quen với
mắt xếch.
Khi James bước ra khỏi nhà, chàng trông thấy ông bố ngủ gật với cái
ly rượu cạn trên sàn nhà. Nghe tiếng bước chân, ông Peterson tỉnh
dậy và trông thấy con trai tay cầm cặp, áo choàng trên cánh tay, và
đầu đội nón.
James báo cho bố biết. "Con phải đi vắng vài ngày."
Ông Peterson gần như không mở được cặp mắt buồn ngủ. "Đi đây
vậy?"
"Hoa Thịnh Đốn."
"Con đi đến cái chỗ chết tiệt ấy làm gì?"
"Con đi xin việc. Và con cũng xem con cần phải làm gì để đem Dục
Thủy qua đây ngay lập tức."
"Con đã cho mẹ biết chưa?"
"Chưa. Cho con gửi lời chào mẹ, được không? Con chỉ đi vài ngày
thôi. Nếu có việc làm, con sẽ phải trở về đây để lấy đồ đạc."
"Được rồi, con."
Mí mắt ông xụp xuống, nhưng James đứng lại. "Mẹ thế nào?"
"Mẹ con sẽ khá hơn." Ông uể oải trả lời. Rượu whisky bao giờ cũng
làm ông buồn ngủ.
Ông nhìn theo con trai bước lên chiếc xe hơi mà ông bà đã giữ gìn
trong những năm chàng xa nhà, rồi ông ngủ thiếp đi.
Chương 10
Đứa Con Hai Dòng Máu Chương 10
Bà Peterson không bao giờ tin vào những gì coi là không thể tránh
được. Vì không tin nên bà không bao giờ chấp nhận. Bà không có
người tâm sự trong số đông đảo bạn bè, tuy mọi người đều tin rằng
mình đủ thân để biết mọi điều bà suy nghĩ và làm. Bà cũng không cho
chồng biết bất cứ chuyện gì, ngoài những chuyện bà muốn ông biết;
ông cũng rất vui thích khi bà không tâm sự với ông. Biết tất cả tâm
hồn và trí óc của người đàn bà có ý chí mạnh mẽ này thực là đáng sợ
đối với ông. Bà đoán biết rằng ông chỉ muốn biết càng ít càng tốt,
bà cũng hiểu rằng vì cảm tình, ông cũng sẽ đứng về phía người con
gái Nhật ngây thơ này, người con gái ngoại quốc sẽ bước vào nhà
ông. Ông sẽ che giấu cảm tình của ông đối với người con gái Nhật,
và sẽ bí mật đứng về phe James.
Đời sống trong nhà vẫn như thường lệ trong khi James vắng nhà và
ông Peterson trở nên quen thuộc với cái giọng nói dễ nghe của bà vợ
khi trả lời điện thoại. "ồ thưa bà, chúng tôi không coi chuyện ấy
quá quan trọng! Bà cũng biết các bà mẹ phải mong đợi những chuyện
rắc rối của con trai mình - không tránh được đâu. Bà có nghĩ đó là
phần bất hạnh của chiến tranh không? Không, nó chưa kết hôn! Tôi
nghĩ chúng nó trải qua một thứ nghi lễ hứa hôn trong một ngôi chùa
Phật giáo, mặc dù tôi không tin lễ nghi ấy có giá trị Ở đây. Dẫu
sao bây giờ chúng tôi cũng chỉ mới nói đến chuyện này thôi."
Những ngày đẹp trời cứ tiếp nối nhau. Hoa hồng trong vườn bắt đầu
nở, lớn hơn và to hơn bao giờ, và cũng thơm hơn bao giờ trong mùa
xuân này. Thỉnh thoảng James cũng gửi bưu thiếp về cho gia đình,
cái nào cũng cho biết chàng sắp trở về, rồi lại không thấy chàng
về. Có những sự chờ đợi mà chàng không hiểu. Hoa Thịnh Đốn là một
mê cung mà chàng đang lạc lối. Cho tới nay chàng chỉ có một lời hứa
hẹn, và lời hứa ấy chẳng có nghĩa gì.
Bà Peterson đọc to những tấm bưu thiếp ấy cho chồng nghe vào giờ
ăn, và mặt bà không chú ý gì. Bà gửi một lá thư hàng không cho bà
đại tá ở Đông Kinh, cám ơn bà ta về những sự báo động và xin bà ta
giúp đỡ thêm.
Bà thúc giục, "Có thể nào đổi James sang Âu châu không? Đó có thể
là giải pháp tuyệt vời nhất. Nếu có thể đổi nó đi ngay lập tức,
trước khi nó đem con nhỏ ấy qua đây, thì tránh cho chúng tôi nhiều
khó khăn."
Vì thế tại Hoa Thịnh Đốn, đi hết văn phòng này tới văn phòng khác,
James chỉ thấy một sự trì hoãn kỳ lạ và khó hiểu. Không trở lại
Nhật Bản thì rất dễ dàng. Người ta có thể thu xếp cho chàng ngay
được. Và đề nghị kế tiếp là chàng phải đi Âu châu, và tại đó chàng
sẽ làm những công việc đúng như chàng làm tại Nhật Bản. Người ta
thấy rằng chàng có một khả năng giỏi về phân tích tình hình chính
trị tại ngoại quốc, và nhiều quốc gia bao quanh Đức quốc cần một sự
phân tích như thế.
Viên sĩ quan chắc nịch, bén nhạy và hơi ít học khuyến khích chàng,
"Anh có thể viết rõ ràng hơn phần đông những người tốt nghiệp đại
học khác có thể viết. Khi tôi đọc những bài của anh, tôi hiểu anh
nói gì."
"Cám ơn," James trả lời, quyết định chàng sẽ không bao giờ đi Âu
châu, ít nhất cho tới khi Dục Thủy đến đây và có thể đi theo chàng.
Âu châu là một thế giới khác nữa. Chàng đã sống trong nhiều thế
giới khác nhau rồi.
Chàng trở về nhà trong một tâm trạng thỏa hiệp. Chàng hiểu rằng
người ta cho chàng thời giờ để suy nghĩ lại, và do đó chàng được
nghỉ phép bán chính thức vô thời hạn. Nếu chàng không muốn đi Âu
châu - thế thì hình như không có gì cho chàng bây giờ tại Hoa Thịnh
Đốn. Chàng bàng hoàng nhận cái tin này với lòng nghi ngờ. Hình như
có người đang chống lại chàng, nhưng chàng không tin đó là viên đại
tá, vì ông ta rất mong ước chàng trở lại Nhật Bản. Chàng không thể
tưởng tượng bất cứ ai khác có ảnh hượng tới tận Hoa Thịnh Đốn.
Trong lúc lái xe ngang qua vùng đất đỏ phì nhiêu của Virginia,
chàng quyết định sẽ đón Dục Thủy sang Hoa Kỳ ngay lập tức. Chàng
thu xếp việc này trong lúc chàng còn ở Hoa Thịnh Đốn. Không có một
trở ngại nào, vì nàng sinh đẻ tại quốc gia này. Từng đoạn Kinh
Thánh chàng đã nghe một cách bất đắc dĩ trong nhà thờ hồi còn nhỏ
thoáng hiện qua tâm trí chàng. Thánh Phao Lô đứng trước một viên
chức La Mã đã tự tuyên cáo. Viên chức La Mã kiêu căng đã nói, "Tôi
đã mua tự do của tôi bằng một giá rất cao."
Thánh Phao Lô đã hãnh diện ngẩng đầu và nói, "Nhưng tôi sinh ra đã
tự do rồi."
Dục Thủy cũng sinh ra tự do như chàng, ngay cả chàng, James
Peterson, cũng tự dọ Nàng là người Mỹ trước pháp luật. Chàng giữ
vững sự kiện không thể thay đổi này.
Khi chàng trở về nhà vào một buổi tối, lúc đó vẫn còn sớm, và cha
mẹ chàng đang chơi cờ trong phòng khách. Họ là những tay chơi cờ
giỏi, nhưng mẹ chàng chơi hay hơn, bởi vì bà quyết tâm muốn thắng
trong khi cha chàng không quan tâm đến thua hay thắng.
Chàng nói khi bước vào nhà, "Kính chào các nhà vô địch."
Hai người giật minh ngẩng lên, cùng vui mừng, nhưng chàng nghĩ mẹ
chàng hơi dè dặt. Nhưng bà không cho phép điều bà cảm thấy làm hư
hỏng cái sự ấm áp của lòng vui mừng khi đứa con trở về. Bà đứng
dậy, hôn má chàng, và hai tay bám vào tay chàng. "Ôi, mẹ rất mừng
khi con trở về. Mẹ hy vọng con không tìm được việc làm, darling -
con chưa cần đi làm đâu! Căn nhà trống trải khi thiếu con."
"Hừ, con không kiếm được việc. Thà như vậy còn hơn. Con không muốn
việc họ cho con. Đi Âu châu! Tại sao con phải đi Âu châu và bỏ phí
những gì con học được tại Á châu? Ai thắng thế? Chắc lại mẹ rồi,
con tin thế!"
Cha chàng nói, "Ngồi xuống. Cho ba biết phải đi thế nào. Như thường
lệ, mẹ con bao vây ba rồi."
Mẹ chàng kêu lên, "Thôi. James đói rồi. Con ăn tối chưa?"
"Chưa ăn gì cả." Chàng bỗng cảm thấy vui tươi. Hai người này sẽ
không xử khó với chàng. Mẹ chàng bắt buộc phải tỏ ra không thù
nghịch chàng. Bà sẽ không bao giờ nói bà hối tiếc, bà không thể như
thế, đó là phong cách của bà. Chàng thấy thoải mái và bỗng chốc
thấy rất mệt mỏi. Mọi thứ trên đời đều phức tạp, lôi kéo một trăm
cách cùng một lúc, nhưng ở đây ít nhất cuộc đời cũng vẫn tiếp tục
như cũ. Dục Thủy nhỏ bé của chàng sẽ bước vào chiếc cửa mở và đời
sống sẽ không bị quay đảo lộn. Cha mẹ chàng có quyền hạn chừng nào
ông bà còn sống; khi ông bà chết rồi, chàng sẽ thay thế chỗ của họ.
Bằng sức mạnh của ý chí và quyết tâm của chàng, chàng sẽ giữ căn
nhà này như cũ, một thế giới không tận cùng.
° ° °
Dục Thủy đọc lá thư như thường lệ, thoạt đầu đọc mau lẹ, nghĩ mãi
từng lời yêu đương. Đây là điều quan trọng nhất. Rồi nàng đọc lại
rất cẩn thận, để có thể hiểu mọi hướng và mô tả của những mẩu tin.
Sau đó nàng đọc vài lần mỗi ngày để cảm thấy gần gũi chàng, tâm trí
hai người giao cảm với nhau, trái tim gặp nhau. Qua những lá thư
nàng hiểu được chàng. Sự gần gũi của da thịt có thể là một ngăn trở
cho sự hiểu nhau! Khi nàng ở trong vòng tay của chàng, ngay cả khi
nàng trông thấy chàng bước lại với nàng, trí óc dừng lại và tư
tưởng biến đi. Nhưng khi giữa hai người là đại dương, thì chính nhờ
trí óc mà hai người có thể sống trong sự hiện diện của nhau, và như
thế tư tưởng chảy ra dễ dàng, và dễ hiểu biết nhau hơn.
...............................................................
bạn đang đọc truyện tại yeutruyen.wapsite.me chúc các bạn vui vẻ
....................................................................
Trong những tuần lễ xa cách, nàng đã bắt đầu biết chàng rõ hơn.
Chàng không mạnh mẽ như lúc đầu nàng tưởng. Chàng cũng tùy thuộc
một phần vào cha mẹ. Điều này làm nàng ngạc nhiên, bởi vì nàng
tưởng tượng thanh niên nam nữ tại Hoa Kỳ hoàn toàn tự do khỏi gia
đình, và có thể làm cái gì họ thích. Họ không bị bắt buộc phải vâng
lời cha mẹ. Bây giờ nàng thấy rằng muốn gì phải có lời cầu xin, và
trong nhà chàng chính người mẹ điều khiển, chứ không phải cha chàng
như ở đây. Nàng suy nghĩ chuyện này nhiều lắm. Nàng phải làm vừa
lòng mẹ chàng, chứ không phải cha chàng. Hừ, điều này có thể hiểu
được, bởi vì ngay tại Nhật Bản mẹ chồng có thể làm người con dâu
trẻ đau khổ hoặc hạnh phúc. James gửi cho nàng những hình ảnh về
căn nhà và cha mẹ chàng. Nàng nghiên cứu khuôn mặt của hai người
lớn tuổi này. Nàng dùng kiếng phóng đại mang từ lớp sinh vật về
nhà, và xem xét từng nét mặt và mắt của họ. Nàng thuộc về một giống
dân cổ và thừa hưởng một sự khôn ngoan của con người. Bằng sự suy
tư bí mật này, nàng hiểu biết một cách đáng ngạc nhiên về cha mẹ
James. Một lần nàng thấy lo lắng về một người con gái tên Monicạ
Monica là người đầu tiên biết về cuộc hôn nhân của hai người, nhưng
chàng hy vọng Monica sẽ là bạn nàng. Chàng không gửi hình và không
nhắc tới Monica.
Thư của chàng chỉ nói về việc nàng sang Hoa Kỳ, và cuối cùng lá thư
ngày hôm nay gửi cho nàng lời yêu cầu nàng phải đi và còn có cả vé
máy bay của nàng nữa. Cái vé này là một kho tàng đối với nàng. Nàng
xem xét tỉ mỉ vé máy bay, đọc mỗi chữ. Tấm vé thực là đơn sơ, nhưng
vô cùng quý giá; đây chính là giấy phép cho nàng vào Thiên Đường.
Sự chỉ dẫn của chàng rất rõ ràng. Không có gì khó khăn cả. Nàng đã
có thông hành, nàng chỉ cần lấy Visa; nàng sẽ lên máy bay tại Đông
Kinh, và chàng sẽ gặp nàng tại San Francisco bằng xe hơi của chàng,
và hai người sẽ hưởng tuần trăng mật trong khi lái xe chạy ngang
đất nước Hoa Kỳ cùng nhau.
Khi nàng đọc lá thư vài lần rồi, nàng đi tìm mẹ và hai người cùng
nói cho cha nàng biết khi ông trở về nhà buổi tối. Nàng thấy mẹ
đang cho cá vàng ăn, dùng một cây que bằng tre, khuấy chiếc ao nhỏ.
Những con cá vàng chậm chạp lờ đờ vì lạnh, nhưng vẫn còn quá sớm
cho chúng lẩn tránh xuống bùn.
Hình dáng mẹ nàng cúi xuống trong bộ kimono màu bạc xanh, trong ánh
nắng mai mờ như sương trong khu vườn giống như một bức tranh. Nàng
sẽ nhớ bà mẹ nhỏ bé này! Tuy nhiên nàng chưa nghĩ như thế trong nỗi
niềm mơ ước được tái ngộ với James. Mẹ nàng quá im lặng, quá rút
lui, quá lặng lẽ, và thế mà nàng cảm thấy cái ý nghĩ đi xa là một
sự miễn cưỡng gần như đau đớn. Nàng quỳ xuống bên mẹ trên đám cỏ
úa.
Những con cá bây giờ bơi ra khỏi những tảng đá, vẫy những chiếc
đuôi rộng, và không quan tâm đến đồ ăn.
Dục Thủy nói, "Chúng nó muốn ngủ."
Mẹ nàng trả lời, "Chúng nó biết sắp tới mùa đông rồi."
Trong một lúc mẹ nàng không nhìn nàng, chú ý đến công việc. Rồi như
thể biết Dục Thủy có mục đích ra gặp bà, bà ngẩng lên, hơi giật
mình. "Có chuyện gì không?"
"Có," Dục Thủy trả lời và rút lá thư ra. "Anh ấy muốn con đi Hoa
Kỳ, và gửi vé máy bay cho con." Nàng rút vé máy bay ra; mẹ nàng cầm
lấy, lật đi lật lại, không thể đọc được.
Bà đưa thư, phong bì và vé máy bay lại cho Dục Thủy.
Dục Thủy hỏi, "Ba sẽ nói gì? Ba không bao giờ tin tưởng James sẽ
đưa con đỊ"
"Bây giờ ba con sẽ hiểu." Mẹ nàng đứng dậy và đậy nắp cái bình đựng
đồ ăn cho cá.
Hai người nhìn dòng nước chảy. Những con cá bỗng trở nên hăng hái
khi ngửi thấy đồ ăn. Chúng đã quên, nhưng chúng bỗng nhớ chúng
thích đồ ăn. Vẫn còn thời giờ cho chúng ăn trước khi chúng
ngủ.
Mẹ nàng nói, "Còn lâu lắm mẹ mới lại gặp con. Có lẽ mẹ chẳng bao
giờ gặp con nữa. Ba con không bao giờ trở lại Hoa Kỳ nữa. Ba con
bảo mẹ thế."
Dục Thủy hứa, "Con sẽ về thăm mẹ." Nàng cong bàn tay vào bàn tay mẹ
như nàng thường làm hồi nàng còn nhỏ.
"Nếu có con - " mẹ nàng bắt đầu và ngừng lại.
Đứa con! Nó sẽ là gì? Một điều không tránh được là nó sẽ sinh ra.
Nhưng người ta có muốn nó sinh ra không? Mọi người đàn bà tự hỏi
câu này. Khi có tình yêu, có nên có con không? Bà Sơn Điền biết
rằng có một thứ tình yêu mà bà không bao giờ biết, nhưng cái sức
quyến rũ của nó bà đã trông thấy ở Dục Thủy. Qua Dục Thủy, bà cảm
thấy sức mạnh của nó, một năng lực thay đổi đã làm cho con gái bà
thành một người sẵn sàng rời bỏ cha mẹ. Chính bà cũng không cảm
thấy thế khi cha mẹ bà gửi bà sang Hoa Kỳ để lấy một người đàn ông
bà chưa từng gặp, bà đã đi mà không thắc mắc gì. Do định mệnh của
bà. Dục Thủy may mắn hơn bà nhiều: nó ra đi vì người đàn ông nó đã
biết. Nhưng có thể nào một người đàn bà Nhật thực sự biết một người
đàn ông Mỹ? Việc này còn phải tìm hiểu. Dẫu sao Sơn Điền cũng là
một người Nhật và không khác với những người Nhật khác, tuy xuất
sắc hơn. Như vậy bà biết rằng con cái của bà sẽ là người Nhật, tóc
đen, mắt đen, da vàng, nhưng làm sao Dục Thủy biết được con cái
mình sẽ như thế nào? Chúng có thể có mắt màu nhạt như mắt của cha
chúng. Lúc đó sẽ phải làm gì? Bà có vẻ giật mình trước sự có thể
xảy ra này, và Dục Thủy nhìn thấy vẻ mặt của mẹ.
"Mẹ, có chuyện gì không?"
Bà Sơn Điền ngơ ngác trả lời, "Mẹ có một ý nghĩ. Dục Thủy, mẹ nghĩ
chuyện này!"
"Chuyện gì hả mẹ?"
"Đàn bà Mỹ - họ không biết con cái sẽ có mắt và tóc màu gì! Đây
không phải là một sự đáng lo ngại ử"
Dục Thủy hỏi, "Mẹ Ơi, chuyện ấy quan trọng đối với con hay
sao?"
Bà Sơn Điền quan tâm trả lời, "Mẹ nghĩ quan trọng. Điều đó quan
trọng đối với mẹ, Dục Thủy, như khi mẹ trông thấy con, và mắt con
không đen. Làm sao mẹ có thể cảm thấy đứa nhỏ ấy là cháu của mẹ nếu
mắt nó không đen?"
"Ô, mẹ Ơi - "
Dục Thủy cố bật cười, nhưng nàng cũng cảm thấy đau khổ một lúc. Nếu
đứa trẻ mắt xanh thì nàng có thấy kỳ lạ không? Tuy thế nếu đứa trẻ
hoàn toàn giống nàng, James có thể cảm thấy kỳ lạ. Như mẹ nàng nói,
thì đây quả thực là một sự khó chịu.
Nàng nói, "Có lẽ con không có con."
Mẹ nàng lắc đầu. Bà nói bằng một giọng thực tế. "Con không thể nói
thế. Nếu đến lúc một đứa trẻ được hoài thai, thì nó sẽ được hoài
thai và không gì có thể ngăn chặn đời sống của nó được. Cái linh
hồn chờ đợi bên ngưỡng cửa, chớ đợi đúng lúc của nó. Khi đúng lúc
sống, chúng ta sống, ngay cả đúng lúc phải chết, thì chúng ta chết.
Cái chu kỳ ấy không thể làm nhanh hơn hoặc chậm lại được. Đời sống
người này có thể ngắn, người kia có thể dài, nhưng tất cả đều là
định mệnh."
Như vậy lời nói này giải thích sự kiên nhẫn và tinh thần không
chống đối, sự chấp nhận, cái nguồn sức mạnh mênh mông và đơn giản
của mẹ nàng. Dục Thủy không thể trả lời được, và cảm thấy cái định
mệnh của mẹ, nàng cúi đầu chào và bước đi.
Đây là lần đầu tiên, sau cái giây phút thông hiểu trái tim của mẹ
nàng, Dục Thủy cảm thấy không thể tránh có con được.
° ° °
Khi cha nàng không phản đối bất cứ chuyện gì về việc ra đi của
nàng, nàng rất đỗi ngạc nhiên, hoặc cảm thấy nàng nên ngạc nhiên.
Ông thu xếp cho nàng đi lấy Visa, đi cùng với nàng tới văn phòng
tại Đông Kinh. Ông bảo nàng biết ông có một ít tiền trong một
trương mục tiết kiêm trong một ngân hàng tại San Francisco mà ông
để lại cho Kiến Sơn, và khi Kiến Sơn chết rồi, số tiền vẫn còn
nguyên tại đó. Bây giờ ông đặt số tiền ấy dưới tên nàng.
Tất cả qua đi một cách dễ dàng đến nỗi tưởng như thần linh chạy
trước mặt để dọn đường cho nàng. Giấy khai sinh của nàng, chứng
minh nàng sinh tại Los Angeles, giấp thông hành của nàng dính liền
vào thông hành của cha mẹ, nay chỉ cần tách ra và chỉ cần thêm một
tấm ảnh là hợp lệ. Điều khó khăn duy nhất là tên nàng. Nàng muốn
dùng tên mới của nàng, là bà James Peterson.
Điều này cha nàng ngăn cấm. "Không, ba không cho phép như thế. Con
phải dùng tên ba và tên con, Dục Thủy Sơn Điền. Có thể sau này con
cần lại cái tên này."
Nàng tức giận chạ "Thưa ba, làm sao ba có thể nói thế? Ba không tin
tưởng con."
Ông chỉ trả lời, "Ba không tin tưởng cuộc đời."
Nàng chịu thuạ Đời sống phải chứng minh nàng đúng. Cha nàng sẽ phải
thấy khi tất cả xảy ra như nàng trông thấy. Người già không tin
tưởng. Khi tất cả thu xếp xong, hai cha con trở về nhà, và nàng rất
cảm động trước cố gắng thân thiện của chạ Ông không nói gì về việc
ra đi của nàng, nhưng từ cửa sổ xe lửa, ông chỉ cho nàng một số
quang cảnh - một người có một cái bướu trên cổ, hoặc một đứa trẻ bị
bịnh mắt. Ông mở cửa sổ và gọi người đàn ông chỉ là một khu khuân
vác. "Này ông kia có bướu trên cổ! Bướu ấy có thể cắt đi. Tại sao
ông không đến bệnh viện tại Đông Kinh? Hoặc tới với tôi tại
Kyotỏ"
Người ấy là một người ngu dốt, và la to lại, "Đời sống tôi gồm có
cái bướu này. Tôi có nên cắt đời sống tôi đi không?"
Bác sĩ Sơn Điền thở dài đóng cửa sổ lại. Công việc của một y sĩ
thực là khó. Trước hết ông phải bảo người đàn ông ấy rằng ông ta có
thể trị lành được, và rồi phải bắt ông ta tin thế. Việc trị bệnh là
việc cuối cùng và dễ nhất.
Ông bàn luận với Dục Thủy về sự bướng bỉnh của con người, nhất là
của những trí óc ngu xuẩn, mà ông bao gồm phần lớn nhân loại, và
đặc biệt là những người trẻ và đàn bà, như Dục Thủy cảm thấy.
Tuy thế không có gì làm mờ hạnh phúc của nàng. Vì ngày giờ ra đi đã
được ấn định, thời gian sẽ lướt quạ Buổi sáng sẽ tới và những giờ
của một ngày bay đi trên đôi cánh hạnh phúc. Nàng sung sướng đến
nỗi nàng trở nên tàn ác mà không biết. Nàng không còn nhìn thấy
những trái dâu đỏ ngoài vườn, hàng năm đem lại cho cha nàng một cái
thú lớn lao. Nàng quên hai lần không cắm hoa vào bình hoa trên bàn
thờ, nhưng cha mẹ nàng không trách nàng. Đối với họ, nàng đã mất
rồi.
Nàng cũng biết sự đau đớn của cha mẹ, nhưng nàng biết không thể
chia xẻ nỗi buồn ấy, bởi vì nàng rạng rỡ với tình yêu và hào hứng,
và trái tim đã vượt qua đại dương và nóng ruột đứng chờ trên bờ
biển xa xôi ấy.
Vì thế khi giờ chia tay tới nơi, khi nàng từ giã căn nhà, khu vườn,
Nhu Mị, và cuối cùng là mẹ nàng, khi nàng cùng với cha đi ra phi
trường, khi nàng biết chỉ còn cách xa James vài giờ nữa, nàng cảm
thấy tê tái vì niềm vui. Không thể nào chỉ nghĩ tới cha mẹ nàng,
hoặc những gì nàng bỏ lại.
Một ngày trước khi lên đường, nàng nhận được một lá thư ngắn của
Hoà Lang Mạc Sầu. Lá thư tử tế và thân thiện, chàng cầu chúc nàng
hạnh phúc và chàng cho biết sẽ gửi sang Hoa Kỳ một món quà cưới
nhỏ. Năm tới chàng cũng có thể đi Hoa Kỳ, nếu công việc thương mại
của chàng khai trương, như chàng và cha chàng hy vọng, và nếu nàng
bằng lòng, chàng sẽ đến thăm và làm quen với những người bà con mới
của nàng. Chàng lúc nào cũng trân quý tình bạn của nàng, và nàng
lúc nào cũng có tình bạn của chàng, dù nàng cần đến tình bạn ấy hay
không. Nàng đọc lá thư, biết chàng rất tử tế khi gửi lá thư này,
nhưng nàng cũng không thể cảm được lòng tốt của chàng. Nàng đốt lá
thư trong cái bình hương, không muốn giữ và cũng không muốn để
lại.
Trong một lúc, khi phi cơ cất cánh, nàng bỗng có một quan niệm ngắn
ngủi về cái nàng đang làm. Nàng nhìn qua ô cửa kính nhỏ, và trông
thấy cha nàng đứng trên sân bay bên ngoài, đứng thẳng và cao, chiếc
áo choàng rộng của ông bay phất phới trong gió. Hai bàn tay ông nắm
chặt chiếc can, hai chân ông đứng vững chãi và xa cách nhau, đầu
ông ngẩng lên để nhìn nàng. Nàng không chắc ông có thể trông thấy
nàng không, nhưng trong một giây nàng có thể trông thấy ông rất rõ
ràng. Ngày hôm ấy trời tốt, ánh mặt trời chiếu rực rỡ sau ba ngày
mưa bão, và ánh sáng mặt trời rọi xuống khuôn mặt đẹp đẽ nhưng có
nhiều nếp nhăn của ông. Nàng trông thấy một nỗi buồn cao quý ở
khuôn mặt ấy, một sự đau lòng tự trọng, một hối tiếc dai dẳng bên
dưới cái dáng vẻ cương quyết của ông. Nàng bỗng hiểu biết và trái
tim đau nhói.
Cảnh ấy không kéo dài lâu. Những chiếc cánh vĩ đại rực rỡ nhấc nàng
lên cao, và trái đất trở nên nhỏ bé và xa dần. Trong vài phút, nàng
đã ở trên cao bên trên đại dương, và tư tưởng cũng như giấc mơ của
nàng đã bay xa trước mặt.
Chương 11
Đứa Con Hai Dòng Máu Chương 11
Tại phi trường San Francisco, James trông thấy Dục Thủy bước xuống
và ngập ngừng một giây lát, nhìn bên này bên kia để tìm chàng.
Chàng xông qua đám đông, xấu hổ chàng đã tới trễ, xấu hổ sáng nay
chàng đã ngủ quá giấc.
Chàng gọi, "Dục Thủy!"
Nàng trông thấy chàng và mắt nàng thay đổi với một nụ cười. Đây là
lần đầu tiên nỗi lo lắng hiện trên khuôn mặt mà chàng đã nhớ rất
kỹ; chàng cảm thấy một sự bất mãn nhẹ nhàng nhưng sâu sắc. Nàng
không đẹp như chàng vẫn nhớ nàng, hoặc có phải tại bộ quần áo màu
xám nàng đang mặc? Nhưng nụ cười dè dặt, quá quyến rũ đã làm nàng
đáng mê trở lại. Nàng đáng yêu là nhờ nụ cười và cái vẻ duyên dáng
hơi nhút nhát. Nàng đi lại phía chàng. Chàng ôm nàng trong cánh
tay, an tâm giữa những kẻ xa lạ chung quanh. Nhưng chàng cảm thấy
ngay những cái nhìn tò mò của những người chung quanh khi thấy một
người Mỹ cao lớn đang ôm một cô gái Nhật. Không ai nói gì cả, và
tất cả lo công việc của mình, cũng vội vàng không thể đánh mất một
giây cho sự tò mò. Chàng dẫn nàng đi theo trong vòng tay của chàng,
không thèm để ý những con mắt người lạ. Nhưng nàng quá biết cái
nhìn ngạc nhiên chung quanh và nàng duyên dáng lùi lại, tuy vẫn để
chàng nắm tay.
James nói, "Chúng ta đi thẳng tới khách sạn. Anh đã thuê một phòng
lớn tại đó rồi. Chúng ta sẽ ở lại vài ngày. Darling, không cần gì
phải vội. Anh cần thời gian sống bên em. Và chúng ta sẽ dùng nhiều
thời giờ trên đường trở về nhà."
Vào lúc đó hai người biết phải làm gì. Chàng kể cho nàng nghe đúng
mọi thứ ở nhà. Nghĩa là, chàng sẽ kể cho nàng tất cả những gì chàng
biết, nhưng chàng hầu như chẳng biết gì, tuy chàng cảm thấy rất
nhiều. Nhưng làm thế nào mẹ chàng có thể không công nhận Dục Thủy
khi nàng đứng trước cửa nhà chàng? Và chàng cũng đứng đó cùng với
nàng.
Chàng gạt ra ngoài nỗi ưu tư này. Trong mấy tuần lễ sắp tới, hai
người sẽ sống riêng với nhau. Chàng ao ước Monica đừng lựa chọn
sống mùa này tại New York. Monica có thể là một trợ giúp đáng quý.
Nhưng chàng có cần ai giúp không?
"Darling, em im lặng quá."
"Có quá nhiều thứ để em nhìn."
Chàng có xe hơi ở đây, và hai người bước lên xe.
"Xe của anh, hả James?"
"Darling, xe của chúng tạ Tất cả những gì của anh là của em."
Nàng mỉm cười và chàng thò tay nắm lấy tay nàng.
Nàng nói sau một lúc im lặng. "Anh nên lái xe cẩn thận."
Chàng cười vang. "Dục Thủy, đây là Hoa Kỳ. Em đã quên nước Mỹ rồi
sao?"
Nhưng chàng lái thong thả, vì như thế chàng có thể mân mê bàn tay
ngà ngọc của nàng với chiếc nhẫn cưới, chiếc nhẫn mà chàng đeo vào
tay nàng trong hôn lễ tại ngôi chùa. Đêm ấy, khi hai người ở một
mình trong căn phòng rất dẹp trong căn nhà bây giờ xa cách cả hai
người, chàng tháo chiếc nhẫn ra và rồi lại đeo vào. Rồi chàng nhắc
lại cái lời thiêng liêng, "Với chiếc nhẫn này, ta làm hôn lễ cho
người."
Lúc ấy nàng không hiểu lắm. Nhưng bây giờ nàng hiểu.
Hai người về tới khách sạn, nàng vẫn còn im lặng mà chàng đoán là
nàng bỡ ngỡ. Chàng đưa những túi hành lý của nàng cho người bồi
khách sạn, rồi hai người bước vào thang máy để lên tầng thứ mười
một, tại đó cửa sổ trông ra đại dương. Chàng cho tiền người bồi và
khóa cửa lại. Chàng lấy cái nón nhỏ của nàng ra, rồi cởi áo choàng
cho nàng, và ôm nàng trong hai cánh tay mạnh mẽ. Ôi, cái mùi da
thịt của nàng, đường nét thanh tú của cổ nàng, sự ấn mạnh đôi vú
nhỏ của nàng vào người chàng! Chàng không chờ đợi được nữa. Và tại
sao phải chờ đợi? Chàng thấy mắt nàng quá đen, quá long lanh, và
miệng quá ngọt ngào. Nàng biết, nàng hiểu nhu cầu của chàng. Nàng
là căn bản của tất cả những gì là đàn bà, một người đàn bà Á đông,
trực giác về những ham muốn của người đàn ông.
"Em vẫn còn yêu anh?" Chàng quá đòi hỏi, để cuối cùng bật ra câu
hỏi này.
"Em rất yêu anh," nàng trả lời, không phải là một lời thì thầm,
nhưng bằng một giọng đáng yêu trong trẻo. "Em phải đi xa như thế
này là vì tình yêu đối với anh, James biết không?"
° ° °
Khi nào cái đời sống của đứa con bắt đầu? Hai người không biết vào
lúc nào trong cái rực rỡ của ban ngày, hay là trong bóng tối của
ban đêm, cái linh hồn ấy bước ra từ cõi vĩnh hằng trước khi sinh ra
đời. Có thể là ở trong căn phòng đầu tiên có bình phong bây giờ đã
ở bên kia đại dương, hoặc là ở trong căn phòng trên cao hướng về
phía tây trong khách sạn, có thể là ở trong một túp lều trên núi,
nơi họ sống với nhau vài ngày, bắt đắc dĩ phải rời bỏ những đỉnh
núi tuyết, có phải trong một khách sạn nhỏ trong một thành phố nhỏ
trên cánh đồng vô tận, hoặc là những ngọn đồi trùng điệp của miền
Trung Tây? Họ không biết. Một lúc nào đó trong những tháng vàng
son, tại một nơi nào đó trong cái chuỗi ngày đêm ân ái, đứa con bắt
đầu hoài thai, nhưng hai người không biết. Hai người không nghĩ đến
đứa con, mà chỉ nghĩ đến chính mình.
Dục Thủy nói, "Chúng ta phải báo cho cha mẹ anh đúng ngày giờ chúng
ta về tới." Cả hai đều suy nghĩ về việc này, mỗi người một cách bí
mật không cho người kia biết, mỗi người bắt đắc dĩ công nhận rằng
một ngày nào đó cuộc hành trình tuyệt vời này phải chấm dứt, những
ngày vàng, những đêm mơ phải qua đi. Trời đất quá tử tế và sự ấm áp
của mùa thu làm cho bầu không khí trở nên huyền bí trong lúc họ di
chuyển hoặc lần lữa. Họ biết nó phải chấm dứt; đây không phải là
đời sống, mà chỉ là tình yêu, và ở đâu đó phải có sự nhập một của
hai người.
Dục Thủy là người thực tế nên đề nghị ngày cuối cùng. Nhạy cảm
trước vẻ mặt của chàng, nàng đã biết chàng sợ ngày cuối cùng lắm.
Trước mặt có một cái gì lờ mờ ám ảnh, nàng không biết là cái gì,
nhưng nàng hết sức tự sửa soạn. Nếu nàng rất thận trọng, rất biết
lo bổn phận, nếu nàng bao giờ cũng coi người trên quan trọng nhất,
thì hai người sẽ có thể hạnh phúc với nhau. Nàng hiểu nàng là vai
chính. Ban đêm khi chàng ngủ, nàng suy nghĩ lại về người đàn ông mà
nàng mỗi lúc một yêu nhiều hơn này; tuy nàng đầu hàng chàng tất cả,
nhưng nàng bắt đầu mơ hồ hiểu rằng người đàn bà không nên đầu hàng
nhiều hơn người đàn ông muốn. Khả năng tiếp nhận phải bằng với khả
năng cho.
Chàng nói, "Nếu chúng ta không dừng lại đâu đó một hai ngày, chúng
ta có thể về tới nhà vào ngày mai."
Nàng dò hỏi, "Anh không muốn về nhà ử"
"Ô hay, dĩ nhiên anh muốn chứ. Chúng ta phải dừng lại tạo lập một
gia đình. Anh phải nghĩ tìm việc làm. Anh sẽ từ bỏ quân ngũ. Anh có
thể - thời hạn quân dịch của anh chấm dứt mấy năm trước rồi. Có lẽ
anh sẽ như ba hiện nay - một người phong lưu nhà quệ"
Nàng đặc biệt chú ý theo dõi mọi điều chàng nói, nhưng nàng không
phải bao giờ cũng hiểu hết những lời nói ấy, những ý nghĩa thêm
vào, cách nói bóng gió của thàng thành ngữ. Mỗi một tiếng Anh chỉ
gồm có định nghĩa trong tự điển cho nàng, và không hơn nữa.
Nàng trả lời, trở lại với quan niệm bổn phận. "Chúng ta phải biết
giờ chúng ta về tới nơi."
"Ngày mốt, khoảng sáu giờ chiều."
Nàng năn nỉ, "Như vậy ngày mai, James, xin anh gọi điện thoại cho
ba mẹ anh."
Chàng nhận thấy cố gắng của nàng muốn kiểm soát chàng cũng quyến rũ
như sự độc tài của một đứa trẻ. Nàng quá lo lắng hướng dẫn chàng
trong lúc nàng tôn thờ và vâng lời chàng. Theo nàng thì chàng rất
cần thiết phải cư xử đúng cách, ít nhất là đối với người khác. Nàng
bật cười khi chàng la cái mà nàng cho là "hư", như khi chàng không
thức dậy về buổi sáng, khi chàng liệng quần áo ngủ xuống sàn nhà,
khi chàng vò mái tóc mượt mà của nàng, hoặc chiếc áo mới của nàng,
khi chàng chọc nàng bắt nàng phải tranh luận với chàng một cách
nghiêm trọng và hăng hái đến nỗi chàng không nín được cười. Khi
nàng trông thấy nụ cười tinh quái của chàng, nàng thường la mắng
"James hư quá!" và đặt bàn tay phải lên miệng để che giấu tiếng
cười. Chàng nhận thấy nàng chiều chuộng chàng một cách quá đáng.
Nàng không nhận sự giúp đỡ nào của chàng trong công việc hàng ngày
tại những nơi họ dừng lại. Nàng hầu hạ chàng, lấy khăn sẵn sàng cho
chàng tắm, rửa đồ cạo râu sau khi chàng dùng xong.
Thoạt đầu chàng kêu lên phản đối sự hầu hạ này. "Ở đây em là vợ anh
chứ không phải là nô lệ của anh!"
Nhưng nàng nhất định làm thế và chàng đành phải nhượng bộ, bởi vì
đây là cách nàng bày tỏ tình yêu với chồng. Chàng phải nói rằng
thực là thú vị khi có người khác hầu hạ mình. Nó cho chàng cái cảm
giác nhàn tản và tự do không bận tâm tới tiểu tiết. Trong thâm tâm,
nàng là người Nhật Bản. Một người con gái Mỹ không bao giờ hầu hạ
chàng như thế. Chàng bắt đầu hiểu tại sao nhiều người nói không thể
yêu một người đàn bà Mỹ nếu người ta từng biết một người đàn bà Á
đông.
Sáng hôm sau Dục Thủy ngọt ngào nhắc chàng. "Thế là sáng nay anh
gọi cho ba mẹ, phải không?"
Chàng hững hờ nói, "Phải, một lúc nào đó." Một ngày hạnh phúc nữa
lại bắt đầu trong làn sương tím mờ của rặng núi trước mặt. Chàng
không muốn nghĩ tới lúc chấm dứt của cái ngày này.
Tuy nhiên chàng thấy nàng lo lắng. Nàng ngồi bên cạnh chàng trong
một sự gò bó lo lắng, khiến chàng phải áy náy.
Chàng bảo nàng, "Dục Thủy, anh sẽ gọi điện thoại mà. Hãy thoải mái
đị"
Nàng đồng ý. "Phải, bây giờ là đúng lúc phải không?"
Chàng bỗng phì cười. "Được rồi, gặp trạm điện thoại công cộng đầu
tiên chúng ta sẽ dừng lại. Em hãy nhìn cái dấu hiệu chiếc chuông
xanh."
Nàng trông thấy nó trước. Mười phút sau khi qua một khóm nhà, nàng
chỉ tay vào trạm điện thoại và kêu lên, "Kia kià!"
Chàng bắt buộc phải dừng xe. Chàng dặn, "Em đợi ở đây." Bây giờ cái
giờ phút ấy đã tới, chàng có vẻ lo lắng và bất đắc dĩ. Chàng không
còn quá nhỏ để mà hoảng sợ, dù chuyện gì xảy ra. Chàng có thể đem
Dục Thủy bỏ nhà đi, và sẽ sống nơi nào hai người thích. Nhưng chàng
không muốn xa nhà. Những năm ở hải ngoại đã làm tăng thêm lòng yêu
nước, yêu quê hương, yêu căn nhà lớn mà ông cố chàng đã xây dựng để
cho những thế hệ sau có chỗ ở. Đó là một cách sống có thể sau này
không còn nữa, nhưng sẽ còn kéo dài suốt đời chàng, ít nhất tại Hoa
Kỳ. Chàng muốn sống cái đời ấy, giống như cha chàng, khôn ngoan,
nhàn tản và bằng lòng.
Chàng đứng trong phòng điện thoại, nghĩ tới những ý tưởng ấy trong
khi chờ đợi. Và liệu Dục Thủy có thể thay thế cho mẹ chàng
không?
"Đây là người ông muốn gọi," giọng người Operator vang lên qua
đường dây.
"Hello, bả Đây là James." Chàng gọi cha chàng để nói chuyện thẳng
thắn, lo sợ cái hậu quả đối với mẹ chàng.
"Phải, con đấy à?" Chàng ngạc nhiên thấy giọng của cha chàng vang
lên trong tai chàng mạnh mẽ và rung ngân. "Con đang ở đâu?"
"Còn cách nhà ba trăm dặm nữa thôi. Con muốn ba biết tụi con sẽ về
tới nhà tối mai, hoặc có thể ngày hôm sau nữa, nếu tụi con có thể
dềnh dàng đâu đó."
Cha chàng ngập ngừng. "Phải, được - James, ba nghĩ con nên ở trong
một khách sạn đêm đầu tiên. Con và ba cần phải nói chuyện."
Chàng hỏi, "Chuyện gì vậy?"
"Bây giờ ba không thể cho con biết được. Chúng ta hãy nói chuyện.
Con nên ở lại Richmond. Ba sẽ tới đó vào buổi chiều và chờ con. Con
có thể gọi ba tại hội quán khi con vào khách sạn."
"Được rồi, tụi con sẽ tới đó." Chàng mong tới đó ngaỵ Chàng muốn
biết và sẵn sàng đương đầu với bất cứ chuyện gì cha chàng nhấn mạnh
hai người phải nói chuyện với nhau.
"Goođbye, bạ Chiều mai gặp bạ"
"Được rồi, con."
Chàng buông điện thoại và lang thang một giây lát trong cái tiệm
nhỏ này. Chàng mua vài thỏi sô cô la và đổi thối tiền. Như vậy
chàng có đủ thời giờ vất bỏ sự lo lắng trên mặt chàng. Mắt Dục Thủy
tinh lắm; nàng có thể đọc được ý nghĩ của chàng, có thể bắt được
cái tâm trạng của chàng. Chàng không muốn giấu diếm nàng điều gì,
nhưng chàng vẫn cố giấu để tránh cho nàng đau đớn. Chàng cũng đã
bắt đầu hiểu nàng, và chàng nhận thức rõ trong nàng sự tuyệt vọng
mau lẹ, một sự sẵn sàng từ bỏ hy vọng và tin vào điều xấu nhất, mà
chàng coi đó là bản chất của người Nhật. Bây giờ nàng không được từ
bỏ hy vọng ngay lúc khởi đầu này.
Khi chàng trở lại xe, chàng mỉm cười và đưa nàng kẹo sô cô
la.
Nàng kêu lên, "James, cám ơn." Chàng thích cho nàng những món quà
nhỏ để có thể nghe thấy cái lời dịu ngọt tận đáy lòng sự biết ơn lễ
phép của nàng, những lời cám ơn nói bằng một giọng chấp nhận ấm áp.
"Và anh có nói chuyện với ba mẹ không?"
"Có, nói với ba anh. Chúng ta sẽ dừng lại ở Richmond đêm đầu tiên,
trong một khách sạn sang trọng. Ba anh nói sẽ tới đó gặp
anh."
Nàng kêu lên, "Ôi, ba anh thực là tốt và tử tế." Mắt nàng thoáng
vương chút lệ. "Em hy vọng ba không quá già. Thực là phiền ba quá!
Còn mẹ anh thì sao?"
Chàng bịa thêm. "Mẹ anh muốn ở nhà và sửa soạn nhà cho thật
đẹp."
Dục Thủy rất sung sướng sau đó. Nàng đưa cho chồng ăn những miếng
sô cô la trong lúc chồng lái xe, và nàng chỉ ăn chút ít. Nàng cẩn
thận gói phần còn lại trong giấy bạc, bọc một lần giấy bao bên
ngoài, và bỏ vào ngăn kéo, để lần khác dùng. Sự tiết kiệm của nàng
làm chàng cảm động. Nàng cẩn thận với những đồ ăn còn dư, quần áo
chàng và quần áo nàng, những trang giấy chưa viết hết, và những thứ
nhỏ nhất có thể phí phạm. Nàng sống giữa những người đã được dậy
phải tiết kiệm và xử dụng tối đa mọi nguyên liệu. Chàng tự hỏi
không biết nàng sẽ đối xử với những phí phạm quá lớn trong căn nhà
lớn của chàng, bốn người đầy tớ, những thùng đồ ăn mang về nhà, đồ
ăn bỏ đi, sự cẩu thả về tiền bạc và quần áo, và nhiều thứ khác?
Chàng lo ngại trước ý nghĩ ấy. Có một cái gì rất cứng cỏi ở nàng.
Bên dưới cái bề ngoài dịu dàng, nàng có những nguyên tắc không lay
chuyển được. Sự chính đáng là một tuyệt đối trong cái trí óc trẻ,
trong sáng và mạnh mẽ của nàng. Mặc dù lòng nàng tràn ngập tình yêu
cho chàng, sự chính đáng vẫn còn đó. Nàng có một nhiệt tâm cho bất
cứ cái gì nàng cho là đúng đắn, trong thái độ trong lời nói và
trong cử chỉ. Nàng không đòi hỏi chàng phải quá nghiêm túc như
nàng, nhưng với bản thân, nàng rất khắt khẹ Chàng có thể trông thấy
trong tương lai nàng sẽ sốt sắng trong việc bảo vệ chàng, hăng hái
bảo vệ tiền bạc, nguồn lương thực, và hạnh phúc của chàng. Chàng sẽ
không thể khuyến dụ nàng rằng sự phí phạm ấy có thể chính đáng,
hoặc một sự ăn cắp vặt nhỏ của đầy tớ không phải là trộm cắp. Tất
cả sẽ được làm vì chàng, nhưng chàng tiên đoán tình yêu này có thể
không bao giờ suy giảm, tuy dịu dàng nhưng rất đỗi đâm mê.
° ° °
Chàng chọn một khách sạn nhỏ trên một con đường yên tĩnh tại thành
phố Richmond, và chàng đủ thành thực biết rằng chàng làm thế để
không gây nhiều chú ý khi chàng cùng Dục Thủy bước vào khách sạn.
Chàng sẽ phải làm quen với những cái nhìn tò mò và những câu hỏi về
chàng tại Nhật Bản. Nếu nàng nhận thấy thế thì liệu nàng có cho
chàng biết không? Bây giờ chàng không dám hỏi nàng, sợ sẽ gây
thương tích cho tâm hồn nàng.
Khách sạn thì sang trọng. Dục Thủy thích cái vẻ cổ kính yên tĩnh
này, khi hai người bước vào một phòng nhỏ, cửa sổ mở ra một công
viên, trong đó một vài cây vẫn còn mang màu sắc rực rỡ của mùa thụ
James gọi điện thoại tới hội quán của cha chàng.
Ông Peterson đang chờ điện thoại của con. Ông tới đây ngày hôm
trước và dùng thời giờ thăm các bạn cũ, không phải tại nhà riêng,
mà tại văn phòng của họ. Ông thường tránh đến nhà riêng của bạn bè.
Mọi người đều nhàn tản, và đều vui mừng gặp lại ông, bởi vì ông là
người có một kho tàng kiến thức. Ông Peterson đáng giá hơn một tờ
báo.
Ông trả lời con, "Ba sẽ đến ngaỵ"
Ông bỏ điện thoại xuống, khoan thai băng qua căn phòng lớn và vui
mắt mà ông thuê thường xuyên tại hội quán, mặc áo choàng, đội nón
và bước xuống chiếc cầu thang cong uốn tròn. Hội quá không có thang
máy, nhưng dù có thang máy ông cũng không dùng.
Bên ngoài không khí oi nồng vì hơi nóng ẩm ướt cuối mùa. Ông chặn
một chiếc tắc xi và ra lệnh, "Đưa tôi tới khách sạn Hoàng Gia," và
ngồi như quên đi trong lúc chiếc tắc xi chạy vòng vèo trong thành
phố. Ông không có ý định giấu diếm con trai về cuộc nói chuyện lâu
dài với vợ. James càng biết sớm càng dễ cho chàng đương đầu với
hoàn cảnh. Thời gian phải qua đi trước khi người ta biết lúc chấm
dứt. Ông xuống xe bên ngoài khách sạn, trả tiền, và lắc đầu với
người bồi da đen đang đứng vơ vẩn trước khách sạn.
"Tôi không ở khách sạn này. Tôi tới để thăm người quen."
Ông tự thấy ngạc nhiên. Tại sao ông không nói, "Tôi tới gặp con
trai tôi?" Có phải trong ông cũng có sự bất mãn khốn nạn ấy? Nếu
có, ông sẽ nhổ nó đi. Ông ghét thành kiến. Trong cõi riêng của óc
ông, ông tin rằng ngày ấy sớm muộn cũng sẽ đến khi mọi người cùng
một màu dạ Hãy để mọi người cùng màu da nâu dơ bẩn! Có sao đâu? Vì
thế nên vất bỏ cái nguyên nhân rắc rối này càng nhanh càng tốt. Một
lần ông ở New York và trong một bữa ăn tối công cộng, ông gặp một
phụ nữ muốn cứu giúp quốc gia này.
Bà ta hỏi ông, "Ông Peterson, chúng ta phải làm gì với màu
dả"
An toàn giữa những người lạ, và xa cách miền Nam và những người
quen biết của ông, ông vui vẻ nói, "Hãy làm nhạt màu da đị" Người
phụ nữ ấy không nói chuyện với ông nữa.
Bây giờ ông thong thả bước lại bàn giấy và nói với người thư ký,
"Bảo ông James Peterson biết bố ông ta đang lên lầu gặp ông
tạ"
"Thưa ngài vâng ạ." Người thư ký lễ phép trả lời, và nhìn ông trừng
trừng.
Như vậy là người ta nhìn nhau chằm chằm, phải không? Ông không quan
tâm.
Người thư ký nói, "Thưa ngài thang máy ở phía kiạ"
"Tôi thích đi bộ," ông Peterson trả lời. Chỉ là tầng thứ hai thôi
mà. Ông hết tập thể dục, và an ủi lương tâm bằng cầu thang. Cầu
thang rộng và dễ đi, và những hành lang trên lầu được trải thảm rất
dầy. Bước chân ông không gây tiếng động và ông gõ mạnh cửa - phòng
số 22, theo James cho biết. Ông nghe thấy một tiếng kêu nhỏ qua
chiếc cánh cửa mở, một giọng nói con gái, rồi tiếng James trả lời,
"Đó là ba anh đấy."
Cửa mở ngay lập tức. Căn phòng trống rỗng, ngoại trừ James đang mỉm
cười với ông:
"Dục Thủy vào phòng ngủ để chải tóc. Cô ta lo lắng phải có một bề
ngoài tề chỉnh. Mời ba vào."
"Ba đoán tất cả đàn bà đều lo lắng về mái tóc của mình."
Ông bước vào phòng và để James cởi áo choàng, nón và gậy cho ông.
Rồi ông ngồi xuống trong chiếc ghế bành êm ái nhất và nhìn quanh
căn phòng khách nhỏ bé. Ông không được kéo dài thêm nữa, nhưng ông
chậm lại đủ để đốt một điếu xì gà.
"Trước khi cô ta bước vào, con ơi, ba phải cho con biết rằng trí óc
mẹ con không được bình tĩnh. Ba không muốn nói chuyện này trước mặt
vợ con, nhưng con và ba phải nghĩ về chuyện này."
James đứng nguyên tại chỗ, thất thần bởi sự nghiêm trọng của sự từ
chối trên mặt cha.
Chàng hỏi, "Ba muốn nói mẹ không muốn chúng con về nhà?"
Ông Peterson trông có vẻ đau khổ. Ông quay đầu đi và hút một hơi xì
gà. "Con ơi, ba sợ như thế. Ñt nhất mẹ con chưa sẵn sàng cho vợ con
về nhà. Dĩ nhiên mẹ lúc nào cũng vui mừng gặp con. Thực ra, mẹ bảo
ba nói với con rằng con lúc nào cũng được hoan nghênh tại nhà. Mẹ
con nói phòng của con bao giờ cũng giữ riêng cho con, lúc nào cũng
sẵn sàng bất cứ khi nào con cần đến."
"Xin chờ một phút - "
James chạy vội vào phòng ngủ và đóng cửa giữa hai phòng lại. Có một
sự im lặng lâu dài, một sự chờ đợi lâu dài. Ông Peterson tiếp tục
hút xì gà. Ông hy vọng James không nói cho người con gái biết. Dễ
giải quyết vấn đề hơn nếu những người đàn bà không biết. Nhưng
giống như những chú rể khác, James có lẽ nghĩ chàng phải nói cho vợ
biết chuyện. Đàn ông phải mất thời gian mới học hỏi được, và một
người bố cũng không thể dậy con trai mình được gì.
Trí óc ông trở về với bà vợ, và cái buổi tối khốn khổ hai người
sống với nhau. Ông đã bảo cho bà biết sự thực, rằng ông sẽ đi
Richmond để gặp James và người vợ mới cưới của con trai. Thay vì
biết ơn ông, bà trách ông thậm tệ.
Ông giải thích, "Chúng ta phải tìm ra đường lối tốt đẹp nhất. Ai
đau lòng nếu không là chúng tả Chỉ bà và tôi thôi. Những người trẻ
có thể bỏ đi và tạo lập một đời sống riêng ở đâu đó. Chỉ có bà và
tôi bị bỏ lại trong căn nhà này. Chúng ta không thể từ con
được."
Bà cãi lại, "Tôi không đòi hỏi chuyện ấy. Tôi chỉ nói một điều tôi
vẫn từng nói, là nó không thể đem người con gái ấy đến đây."
Ông nhắc nhở bà, "Chúng nó đã kết hôn rồi."
Trên bộ mặt xinh đẹp của bà, có lần lâu lắm rồi ông trông thấy một
cái gì có thể gọi là khinh bỉ. Lần đầu ông trông thấy là lúc ông bà
đi hưởng tuần trăng mật, và ông đã quên không biết tại sao. Ông chỉ
nhớ lại sự xúc động khi trông thấy cái miệng đẹp đễ ấy, chỉ để hôn,
có thể nhếch lên để xua đuổi cả tình yêu của ông. Nhưng vào những
ngày ấy, ông vẫn không ngừng yêu bà, nhưng ông không còn yêu bà
trọn vẹn như trước nữa. Có những giờ những ngày và chắc chắn có
những giây phút ông thích không nghĩ đến bà nữa.
Bà tuyên bố, "Chúng nó chưa kết hôn." Bà nói bằng một giọng kéo dài
nhẹ nhàng ngọt ngào, người đàn bà dịu dàng nhất khi bà muốn thế,
nhưng cũng vẫn là cái giọng nói khô khan cứng cỏi mà ông sợ
hãi.
"Tại sao bà nói thế? Bà biết tôi đã bảo bà một ngôi chùa thì cũng
giống như một nhà thờ - "
"Tôi không cần biết về các ngôi chùa."
Ông không thích cái vẻ chiến thắng trên mặt bà. Ông đã từng thấy
cái vẻ ấy trên mặt bà, hai ba lần, một lần khi James vào quân
trường trái với ý muốn của James và ông. Ông đã để bà toại ý bởi vì
nếu ông nhất định đòi con trai rút ra khỏi quân trường thì có thể
tạo ra một sự Ồn ào công cộng.
Ông bắt đầu, "Đó không phải là cái bà quan tâm đến - "
Bà cắt ngang lời nói quanh co của ông bằng một tiếng kêu. "Ông
đúng! Cái điều tôi nghĩ hay ông nghĩ không quan trọng, mà là luật
lệ. Luật của tiểu bang này cấm hôn nhân giữa người da trắng và
người da màu."
Bà nhìn ông và bắt buộc ông phải trả lời.
Ông nói to, "Bà biết luật ấy làm ra để chống lại người da
đen!"
Bà nhắc lại, "Đó là luật pháp."
Ông đứng dậy và bỏ đi, nhưng trước khi ông có thể ngủ, ông đã gọi
luật sư riêng của ông để hỏi. Điều đó đúng. Luật pháp của tiểu bang
ngăn cản hôn nhân của James, bởi vì người con gái có dòng máu Á
châu. Bây giờ ông phải bảo cho con biết.
Cửa phòng mở ra và James bước vào cùng với Dục Thủy. Ông Peterson
rất sợ cái giây phút này, và bây giờ cái giây phút ấy tới. Ông chậm
chạp đứng dậy, chăm chú nhìn người con gái mà con trai ông đang nắm
tay, một người con gái e lệ xinh đẹp, nước da trắng ngà đang ửng đỏ
và hai mắt đẹp đen láy long lanh vì sợ hãi. Ông nghĩ tại sao một
khuôn mặt ngọt ngào như vậy, một đứa trẻ nhút nhát như thế, một đứa
trẻ đau khổ, lo lắng muốn làm vừa lòng, đang năn nỉ để được hiểu và
chấp nhận! Tất cả lòng tội nghiệp của ông, sẵn sàng và run rẩy, đổ
dồn về phía nàng.
James nói, "Đây là Dục Thủy."
Ông Peterson nặng nề bước ngang qua phòng và chìa bàn tay phải to
và mềm mại của ông. Ông nói, "Chào cô, tôi rất vui mừng gặp cộ Cô
đã phải đi quá xa và tôi hoan nghênh cô tại đây." Ông cảm thấy bàn
tay nhỏ bé của nàng trong tay ông, và khẽ nắm lại. "Có lẽ cô mệt và
nhớ nhà lắm."
"Dạ không, cám ơn ba," Dục Thủy trả lời bằng một giọng chỉ to hơn
tiếng thì thầm. Nàng cảm thấy quá bé nhỏ trước thân hình ông
Peterson. Ông là một người quá to lớn, nhưng ngay lập tức nàng biết
ông là người tử tế. Nàng mỉm cười, đôi môi run rẩy và mắt mở to hơn
bao giờ khi nàng ngẩng lên nhìn ông.